Bị hại là gì hiện đang là câu hỏi Tổng đài pháp luật nhận về nhiều nhất trong thời gian gần đây. Vậy đặc điểm của bị hại là gì? Quyền và nghĩa vụ của bị hại là gì? Bị hại và nguyên đơn dân sự khác nhau ở đâu? Ngay trong bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ hỗ trợ giải đáp tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến bị hại. Trong trường hợp bạn có bất cứ thắc mắc nào liên quan, hãy liên hệ ngay đến hotline 1900.6174 để được luật sư tư vấn luật hình sự hỗ trợ tư vấn miễn phí.
Bị hại là gì?
>> Luật sư giải đáp chi tiết bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), bị hại được hiểu là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản hoặc uy tín do tội phạm gây ra hoặc do đe dọa gây ra.
Bị hại là cá nhân có thể là công dân Việt Nam, hoặc là công dân nước ngoài nhưng phải là một con người cụ thể đang tồn tại.
Bị hại là cơ quan, tổ chức được thành lập, tồn tại và vẫn đang hoạt động hợp pháp tại thời điểm bị tội phạm gây ra hoặc do đe dọa gây ra thiệt hại.
Trên đây là giải đáp của Tổng đài Pháp luật cho câu hỏi bị hại là gì? Mọi thắc mắc của bạn về các vấn đề pháp lý xoay quanh bị hại, hãy liên hệ ngay đến đường dây nóng 1900.6174 để được luật sư hỗ trợ nhanh chóng và chi tiết nhất.
>> Xem thêm: Bị cáo là gì? Bị can, bị cáo khác nhau như thế nào? BLHS 2015
Đặc điểm của bị hại là gì?
>> Đặc điểm của bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174 để được luật sư giải đáp nhanh nhất.
Từ phân tích vấn đề bị hại là gì nêu trên thì bị hại sẽ có các đặc điểm như sau:
– Đối với trường hợp bị hại là cá nhân thì cá nhân này có thể là công dân Việt Nam hoặc là công dân nước ngoài… nhưng bắt buộc phải là người đang còn sống. Điều này cũng có nghĩa là người chưa được sinh ra (thai nhi), hoặc là người đã chết thì sẽ không được coi là bị hại. Vì vậy, một người đã chết do tội phạm gây ra cũng không được coi là bị hại.
– Đối với trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì đây là một quan điểm mới của Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trước đây pháp luật chỉ thừa nhận bị hại là cá nhân. Cơ quan hay tổ chức được coi là bị hại có thể có hoặc là không có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên cơ quan, tổ chức được coi là bị hại thì phải được thành lập hợp pháp và vẫn đang hoạt động, tồn tại tại thời điểm tội phạm xảy ra. Cơ quan, tổ chức không còn tồn tại hoặc là đã giải thể… thì sẽ không được coi là bị hại.
– Thiệt hại của bị hại sẽ phải do tội phạm trực tiếp gây ra, có mối quan hệ nhân quả và phải là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hay danh dự.
Thiệt hại của bị hại phải do tội phạm trực tiếp gây ra khi tội phạm xâm phạm đến khách thể được pháp luật bảo vệ. Thiệt hại đó phải là trực tiếp, và có mối quan hệ nhân quả đối với tội phạm. Điều đó có nghĩa là, vì có tội phạm nên mới xảy ra thiệt hại, những hành vi của người thực hiện tội phạm trực tiếp gây ra những tổn thất, thiệt hại, cho bị hại. Không phải trường hợp nào bị thiệt hại do tội phạm cũng được xem là bị hại, mà còn có thể là nguyên đơn dân sự hoặc là bị đơn dân sự.
Thiệt hại của bị hại có thể là về thể chất (như tính mạng, sức khỏe…), tinh thần (về danh dự, nhân phẩm…) hay tài sản.
+ Đối với những thiệt hại về thể chất và tài sản thì có thể dễ dàng xác định thiệt hại; còn đối với những thiệt hại về tinh thần, uy tín của bị hại thì cần phải cẩn thận cân nhắc, đánh giá để xác định được mức thiệt hại.
+ Đối với những tội phạm xâm phạm về tinh thần hay uy tín của bị hại thì đa số đều là tội cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần thực hiện hành vi xâm phạm đến danh dự, uy tín của bị hại thì đã đủ điều kiện để cấu thành tội phạm.
Như vậy, trên đây Tổng đài Pháp luật đã đưa ra một số đặc điểm của bị hại dựa trên những phân tích về quy định của pháp luật. Nếu bạn còn chưa hiểu rõ về những đặc điểm nay, hãy nhấc máy gọi đến hotline 1900.6174 để nhận được sự giải đáp nhanh chóng nhất từ luật sư.
>> Xem thêm: Đương sự là gì? – Cách xác định tư cách đương sự trong tố tụng [2022]
Quy định của pháp luật về bị hại
>> Quy định của pháp luật về bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174 để nhận được tư vấn miễn phí.
Theo như các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị hại sẽ có các đặc điểm dưới đây:
– Thứ nhất, về chủ thể bị hại sẽ bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
– Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm có: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy nhiên thì cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
– Thứ ba, về thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay là các đương sự khác trong vụ án hình sự.
– Thứ tư, công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Từ những phân tích nêu trên thì có thể đưa ra khái niệm bị hại theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: Bị hại được hiểu là người mà bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Bị hại có thể là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản hay uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
+ Nếu trường hợp bị hại là người chưa thành niên hay là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại.
+ Trong trường hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng hay con của bị hại tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại.
+ Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức sẽ tham gia với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại.
+ Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan, tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì pháp nhân sẽ phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy, những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại là rất quan trọng. Quy định này sẽ góp phần bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của bị hại. Tuy nhiên trong thực tiễn việc xác định chính xác bị hại cần phải có sự nghiên cứu kỹ càng để tránh xác định sai tư cách tham gia tố tụng.
Trên đây là tư vấn của Tổng đài Pháp luật về bị hại theo đúng quy định của pháp luật. Nếu bạn còn có bất kỳ câu hỏi nào hay gặp phải những vấn đề pháp lý khó khăn cần được giải đáp, hãy liên hệ ngay đến hotline 1900.6174. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ tư vấn cho bạn mọi lúc mọi nơi.
>> Xem thêm: Quy định xét xử sơ thẩm là gì? Nguyên tắc xét xử sơ thẩm [2022]
Quyền và nghĩa vụ của bị hại là gì?
Quyền của bị hại
>> Quyền của bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174 để được luật sư giải đáp chi tiết.
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị hại sẽ có các quyền sau đây:
– Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ (căn cứ điểm a khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
– Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu (căn cứ điểm b khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Đây là một trong những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo điểm b khoản 2 Điều 62 Bộ luật này thì bị hại hoặc là người đại diện hợp pháp của họ có sẽ quyền đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Như vậy thì không chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng mới có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mà bị hại vẫn sẽ có quyền đưa ra các chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có hay là không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị hại còn có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
– Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu và các đồ vật có liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra cũng như đánh giá (căn cứ điểm c khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Nếu như trước đây thì bị hại trong vụ án hình sự sẽ chỉ được đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu thì theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị hại còn có quyền trình bày ý kiến của mình về các chứng cứ, tài liệu và đồ vật có liên quan đến vụ án, đồng thời có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật đó. Đây được xem là một quy định nâng cao sự chủ động của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự.
– Đề nghị giám định, định giá tài sản theo các quy định của pháp luật (căn cứ điểm d khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
– Quyền được thông báo về kết quả điều tra, giải quyết vụ án (căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Trong giai đoạn điều tra, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (căn cứ Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), quyết định phục hồi điều tra (Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) và khi kết thúc điều tra thì cơ quan điều tra phải thông báo cho bị hại, đương sự và người đại diện hợp pháp của họ (căn cứ Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
– Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật (căn cứ điểm e khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015):
Khi bị hai có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như là điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký Toà án không vô tư trong khi tiến hành tố tụng và người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật không vô tư trong khi tham gia tố tụng thì bị hại sẽ có quyền đề nghị thay đổi họ (căn cứ khoản 2 Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
– Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại hay biện pháp bảo đảm bồi thường (căn cứ điểm g khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015):
Bị hại sẽ có quyền đề nghị hình phạt đối với người phạm tội để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xem xét sau khi đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án.
Bị hại cũng sẽ có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại do tội phạm xâm phạm.
– Được tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa (căn cứ điểm h khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015):
Bị hại được quyền tự bảo vệ hoặc là nhờ người bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp cho mình (căn cứ điểm i khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa chọn tự mình bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp cho mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
– Được tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này (căn cứ điểm k khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền cũng như lợi ích hợp pháp khác của mình hay của người thân thích của mình khi bị đe dọa (căn cứ điểm l khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
– Kháng cáo bản án hay quyết định của Tòa án (căn cứ điểm m khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Trong trường hợp bị hại hoặc là người đại diện hợp pháp của họ chết hoặc là trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Trong trường hợp bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc là quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Người được uỷ quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (căn cứ điểm n khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
>> Xem thêm: Kháng cáo là gì? Quy định về kháng cáo [Cập nhật 2022]
Nghĩa vụ của bị hại
>> Nghĩa vụ của bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174 để được luật sư hỗ trợ giải đáp.
Bị hại có các nghĩa vụ như sau:
– Bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trong trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc là không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
– Nghĩa vụ chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan hay của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
– Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc là bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện hợp pháp sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này.
– Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc là tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Nội dung trên đây Tổng đài Pháp luật đã giải đáp chi tiết về quyền và nghĩa vụ của bị hại. Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc gì xoay quanh vấn đề này, hãy liên hệ ngay đến đường dây nóng 1900.6174 để nhận được sự tư vấn cụ thể và kỹ càng hơn từ đội ngũ luật sư và chuyên viên tư vấn của chúng tôi.
>> Xem thêm: Kháng nghị là gì? Phân biệt giữa kháng cáo và kháng nghị [2022]
Phân biệt bị hại và nguyên đơn dân sự
>> Sự khác nhau giữa nguyên đơn dân sự và bị hại là gì? Gọi ngay 1900.6174 để được luật sư giải đáp miễn phí.
Về khái niệm:
– Bị hại được hiểu là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản hoặc uy tín do tội phạm gây ra hoặc do đe dọa gây ra (Căn cứ Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
– Nguyên đơn dân sự được hiểu là cá nhân, cơ quan hay tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ngoài những yếu tố giống nhau thì bị hại và nguyên đơn dân sự còn có những điểm khác nhau, cụ thể là:
– Về thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại: Là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là cơ quan, tổ chức).
+ Nguyên đơn dân sự: chỉ bị thiệt hại về tài sản.
– Về quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra:
+ Bị hại bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội là trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của một cơ quan X và cơ quan X bị khởi tố. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì cơ quan X là bị hại trong vụ án hình sự.
+ Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra thiệt hại cho chủ thể này.
Ví dụ: A đánh B gây thương tích và sự việc này xảy ra tại trụ sở cơ quan X. Việc A đánh B đã làm B bị thương còn cơ quan X cũng bị hư hỏng một số tài sản. A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp này thì cơ quan X là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự nếu cơ quan X có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
>> Xem thêm: Nguyên đơn dân sự là gì? Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự
Trên đây là nội dung tư vấn của Tổng đài pháp luật về vấn đề bị hại là gì và các vấn đề pháp lý liên quan. Hy vọng rằng thông qua bài viết này, bạn đã hiểu thêm các quy định của pháp luật về bị hại, quyền và nghĩa vụ của bị hại. Trong quá trình tìm hiểu nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào còn chưa được làm rõ, hãy liên hệ ngay với đội ngũ luật sư tư vấn của chúng tôi qua đường dây nóng 1900.6174 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.