Khoản 4 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị phạt như thế nào?Tội danh này được quy định cụ thể tại Điều 174 Bộ luật hình sự và tại khoản 4 là mức phạt nặng nhất đối với tội này.Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm của Tổng đài pháp luật xin gửi đến quý bạn đọc câu trả lời qua bài viết dưới đây! Để được đảm bảo quyền lợi, quý khách hàng có thể liên hệ với chúng tôi qua hotline 1900.6174 để được hỗ trợ.
>>>Luật sư tư vấn miễn phí về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gọi ngay 1900.6174
Quy định chi tiết về Khoản 4 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
“4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
- a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
- c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.”
>>>Luật sư tư vấn miễn phí về quy định chi tiết về khoản 4 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gọi ngay 1900.6174
Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khoản 4 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan:
- Hành vi:
Để thực hiện hành vi lừa đảo, tội phạm sử dụng những thủ đoạn gian dối tinh vi, đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị hại tin rằng đó là sự thật và tình nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như bằng lời nói, bằng viết tay, bằng hình ảnh hoặc qua các hành động giả mạo. Người phạm tội thậm chí có thể kết hợp nhiều cách thức khác nhau để đánh lừa và chiếm đoạt tài sản của người khác.
Trong trường hợp này, người bị hại không có đủ cơ hội hay thông tin để phát hiện sự gian dối và từ đó không thể phòng ngừa hoặc bảo vệ tài sản của mình. Sự lừa đảo tinh vi của tội phạm đã khiến người bị hại hoàn toàn tin tưởng và chủ động giao tài sản cho người phạm tội.
Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của tội phạm đã trở nên rất tinh vi và lợi dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là trang mạng xã hội và các trang web, để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội sử dụng các chiêu thức gian dối và trí tuệ cao để lừa đảo, đánh lừa người khác và chiếm đoạt tài sản của họ. Sau khi đã đạt được mục tiêu, tội phạm thường tuyệt giao mọi liên lạc với người bị hại để che đậy dấu vết. Họ có thể che giấu hoặc cung cấp thông tin sai lệch làm cho người bị hại không nhận ra hoặc chỉ biết những thông tin không chính xác về tội phạm.
Một đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải được thực hiện trước khi tiến hành hành vi chiếm đoạt tài sản. Điều này làm cho người bị hại hoàn toàn tin tưởng và chủ động giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối tinh vi, thông minh được áp dụng để khiến người bị hại hoàn toàn mất cảnh giác và không nghi ngờ gì về người lừa đảo. Từ đó, tội phạm có thể thuận lợi chiếm đoạt tài sản một cách trái phép.
- Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017, theo đó, để cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, cần phải kèm theo một số điều kiện sau:
- Người phạm tội đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản và tiếp tục vi phạm lần nữa.
- Người phạm tội đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc một trong các tội phạm tương tự khác theo quy định, nhưng chưa được xóa án tích và tiếp tục vi phạm.
- Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
- Tài sản bị chiếm đoạt là nguồn sống chính của người bị hại và gia đình của họ.
Cần lưu ý rằng nếu hành vi gian dối hoặc hành vi chiếm đoạt của người phạm tội cấu thành vào một tội danh độc lập khác, thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng. Ví dụ, nếu hành vi gian dối làm tem giả, vé giả (theo quy định tại Điều 164 Bộ luật hình sự), hành vi gian dối trong cân đong đo đếm, tình gian, đánh tráo hàng (theo quy định tại Điều 162 Bộ luật hình sự), hay hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma túy, thì người phạm tội sẽ bị xử lý theo các quy định tương ứng về tội danh đó.
Về khách thể:
Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Người phạm tội thực hiện hành vi này nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của người bị hại.
Về mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chính của họ là mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội đã có mục đích chiếm đoạt tài sản từ trước. Điều này có nghĩa là họ đã có ý định lừa đảo và chiếm đoạt tài sản từ trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Trái lại, nếu người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp và sau đó mới có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi đó không được coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong một số trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Về chủ thể:
Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể do bất kỳ người nào trên 16 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
>>>Xem thêm: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên 10 tỷ phải chịu bao nhiêu năm tù?
Khoản 4 lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hình phạt là gì?
Người phạm tội sẽ bị chịu mức án cao nhất là từ 12 năm đến 20 năm tù, hoặc thậm chí có thể bị kết án tù chung thân khi phạm một trong các tội tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự hiện hành.
Cụ thể, khi người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 Đồng trở lên, trường hợp này sẽ tương tự điểm c khoản 2 của Điều 174. Điều này có nghĩa là mức hình phạt sẽ được căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt để xác định. Trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn sẽ dẫn đến án phạt nặng hơn.
Ngoài ra, nếu người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp để lừa đảo và chiếm đoạt tài sản, thì hành vi này cũng được xem là cực kỳ nghiêm trọng và đáng trừng phạt. Điều này có thể là do lợi dụng sự loạn lạc, tình hình khó khăn, hoặc những tình huống đặc biệt khác. Trong trường hợp này, người phạm tội sẽ phải chịu mức án nặng nhất là từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc thậm chí có thể bị kết án tù chung thân.
Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tại khoản 4 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 5 của Điều 174 trong Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị áp đặt các biện pháp phạt bổ sung.
Cụ thể, người phạm tội có thể bị áp đặt mức phạt tiền từ 10.000.000 Đồng đến 100.000.000 Đồng. Mức tiền phạt này được căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
Ngoài việc áp đặt tiền phạt, người phạm tội cũng có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Cuối cùng, trong một số trường hợp, người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản mà họ đã chiếm đoạt trái phép. Biện pháp tịch thu này nhằm đảm bảo rằng tài sản bị chiếm đoạt sẽ được trả lại cho người bị hại hoặc đền bù thiệt hại gây ra.
>>>Luật sư tư vấn miễn phí về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội chiếm đoạt tài sản, gọi ngay 1900.6174
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của khoản 4 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại Điều 51 trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xem xét khi xét xử vụ án. Những tình tiết này có thể giúp giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội dựa vào sự cân nhắc công bằng và đối xử nhân đạo.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:
- a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Điều này ám chỉ người phạm tội đã có những hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả xấu hơn của tội phạm hoặc giảm thiểu tác động tiêu cực đối với nạn nhân và xã hội.
- b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Điều này nhấn mạnh tinh thần hòa giải và chịu trách nhiệm của người phạm tội khi họ tự nguyện đền bù thiệt hại gây ra hoặc cố gắng khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội.
- c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: Điều này ám chỉ rằng người phạm tội đã tự vượt qua mức độ cần thiết để tự phòng vệ hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân hoặc người khác.
- d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết: Điều này nói đến việc người phạm tội đã hành động vượt quá giới hạn cần thiết trong tình huống khẩn cấp mà họ đang đối mặt.
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội: Điều này ám chỉ đến việc người thực thi pháp luật đã sử dụng lực lượng vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, dẫn đến tổn thương không cần thiết.
- e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội bị kích động về tinh thần bởi hành vi trái pháp luật hoặc thiếu thận trọng của nạn nhân, dẫn đến họ vi phạm.
- g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra: Điều này ám chỉ rằng người phạm tội đã vấp phải vào hoàn cảnh khó khăn, nhưng hoàn cảnh này không do họ gây ra, làm ảnh hưởng đến hành vi và quyết định của họ.
- h) Người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng không gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc không gây ra thiệt hại lớn đối với người bị hại hoặc tài sản.
- i) Người phạm tội là người lần đầu tiên vi phạm và vi phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: Điều này nhấn mạnh tới việc người phạm tội không có tiền án hoặc tiền sự, và vi phạm trong một trường hợp có tính chất ít nghiêm trọng hơn, không gây ra hậu quả lớn đối với xã hội.
- k) Người phạm tội đã phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội dưới sức ép hoặc bị đe dọa, hoặc bị ép buộc từ người khác.
- l) Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra: Điều này nói đến trường hợp người phạm tội bị hạn chế về khả năng nhận thức, có thể do tình trạng sức khỏe hoặc bất kỳ nguyên nhân nào khác ngoài lỗi của họ.
- m) Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội do lạc hậu: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm pháp luật do không có kiến thức hoặc nhận thức đầy đủ về quy định của pháp luật.
- n) Người phạm tội là phụ nữ có thai: Điều này nhấn mạnh tới việc trạng thái mang thai của người phụ nữ, mà có thể tác động đến mức trách nhiệm hình sự của họ.
- o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội là người cao tuổi, và tuổi tác có thể là một yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ.
- p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng: Điều này nhấn mạnh tới việc trạng thái khuyết tật nặng của người phạm tội, và điều này có thể được xem xét như một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội bị ảnh hưởng bởi một bệnh tật hoặc tình trạng sức khỏe đặc biệt mà khiến họ không có khả năng nhận thức hoặc kiểm soát hành vi của mình, làm giảm tính cách mạng của hành vi phạm tội.
- r) Người phạm tội tự thú: Điều này nhấn mạnh tới việc người phạm tội thú nhận hành vi phạm tội của mình mà không cần bị buộc bởi cơ quan điều tra hay bằng chứng.
- s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội sau khi bị phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì tỏ ra thành khẩn khai báo, thừa nhận sai lầm và thể hiện lòng hối cải thật sự.
- t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án: Điều này nhấn mạnh tới việc người phạm tội tự nguyện hợp tác chủ động với cơ quan chức năng trong việc điều tra, phát hiện và giải quyết vụ án, cung cấp thông tin quan trọng, giúp đỡ công tác pháp luật.
- u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội: Điều này ám chỉ tới việc người phạm tội đã có hành vi tích cực hoặc tự nguyện đền bù, bồi thường, sửa chữa thiệt hại hoặc có những hành động tích cực để đền bù cho tội phạm của mình.
- v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác: Điều này nhấn mạnh tới việc người phạm tội có những đóng góp xuất sắc và thành tích tốt trong các lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác, điều này có thể là một yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ.
- x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ: Điều này nhấn mạnh tới việc người phạm tội có những đóng góp, cống hiến đặc biệt cho cách mạng hoặc có quan hệ thân tộc đặc biệt với người liệt sĩ, điều này có thể là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Khi xem xét quyết định hình phạt, Tòa án có thể xem xét đầu thú hoặc những tình tiết khác làm cơ sở để giảm nhẹ mức án, và điều này phải được ghi rõ lý do trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong Bộ luật này là những dấu hiệu có thể dùng để xác định tội phạm hoặc xác định khung hình phạt, và những tình tiết này không được xem là cơ sở để giảm nhẹ mức án khi quyết định hình phạt.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
- Tòa án có thể quyết định áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
- Tuy nhiên, Tòa án có thể quyết định áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, đối với người phạm tội lần đầu và có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này, nhưng điều luật chỉ quy định một khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án, để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xử lý vụ án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ, điều này cho phép Tòa án áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Việc này nhằm tôn trọng các tình tiết giảm nhẹ đáng kể và những nỗ lực của bị cáo trong việc sửa chữa hậu quả hoặc chuộc tội.
>>>Luật sư tư vấn miễn phí về việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp nào? Gọi ngay 1900.6174
Trên đây là toàn bộ thông tin về Khoản 4 Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Đội ngũ luật sư của Tổng đài pháp luật muốn cung cấp cho quý bạn đọc. Trong quá trình theo dõi, nếu có bất kỳ vướng mắc nào, quý bạn đọc vui lòng liên hệ 1900.6174 để được hỗ trợ kịp thời và đầy đủ nhất!
Liên hệ chúng tôi
✅ Dịch vụ luật sư | ⭐️ Chuyên nghiệp: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ xử lý nợ xấu, nợ khó đòi | ⭐️ Đúng pháp luật – Uy tín |
✅ Dịch vụ ly hôn | ⭐️ Nhanh – Trọn gói – Giải quyết trong ngày |
✅ Dịch vụ Luật sư riêng | ⭐️ Uy tín: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ Luật sư Hình sự | ⭐️ Nhanh chóng – Hiệu quả |
✅ Dịch vụ Luật sư tranh tụng | ⭐️ Giỏi – Uy tín – Nhận toàn bộ vụ việc |
✅ Dịch vụ Luật sư doanh nghiệp | ⭐️ Tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp |