Hợp đồng dân sự là việc cam kết giữa hai hay nhiều bên để làm hoặc không làm một việc nào đó trong khuôn khổ của pháp luật. Vậy điều kiện để hợp đồng có hiệu lực như thế nào? Khi nào hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu? Bài viết dưới đây của Tổng đài pháp luật sẽ giải đáp tất cả các vấn đề trên. Nếu quý bạn đọc còn có bất kì câu hỏi thắc mắc nào, hãy liên hệ ngay đến hotline 1900.6174 để được các Luật sư, chuyên gia giàu kinh nghiệm tư vấn nhanh chóng, chính xác nhất.
Hợp đồng dân sự là gì?
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân, tổ chức phải tham gia các mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ này để qua đó có thể chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng và là một tất yếu đối với mọi đời sống xã hội.
Nếu chỉ một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận thì cũng không thể hình thành một mối quan hệ để qua đó có thể thực hiện việc chuyển giao phần tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên với nhau thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất này mới được hình thành. Quan hệ đó được coi là hợp đồng dân sự.
Do đó, cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng này là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tiễn hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (được pháp luật bảo vệ và công nhận) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng đó nhưng sự “tự do” này phải được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác và lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Khái niệm về hợp đồng dân sự này cần phải được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau. Theo phương diện khách quan thì hợp đồng đó có nghĩa là do các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự này là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
Theo phương diện này, hợp đồng này vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét ở dạng khái quát:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng” (căn cứ theo Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng năm 1991).
Sự liệt kê cụ thể bao giờ cũng rơi vào tình trạng không đầy đủ và để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các hợp đồng xảy ra trong thực tế, Bộ luật dân sự năm 2015 đã định nghĩa nó ở dạng khái quát hơn:
”Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Như vậy, hợp đồng dân sự này không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thỏa thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ trong hợp đồng đó. Hợp đồng dân sự (nghĩa chủ quan) và pháp luật về hợp đồng (nghĩa khách quan) là hai khái niệm không đồng nhất với nhau.
Hợp đồng theo nghĩa chủ quan là một quan hệ xã hội được hình thành từ sự thoả thuận của các bên chủ thể để thoả mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng là sự thừa nhận, là yêu cầu của nhà nước đối với các giao lưu dân sự đó.
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng nếu xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt giữa một bên hợp đồng dân sự với một bên hợp đồng kinh tế nếu nội dung của chúng đều là sự trao đổi và mua bán các lợi ích vật chất.
Ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, các thành phần kinh tế ngày một phong phú và đa dạng làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi theo.
Hợp đồng thương mại cũng trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích kinh doanh trên nguyên tắc các chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhau càng làm mờ nhạt đi ranh giới giữa nó với hợp đồng dân sự. Có những quy định của pháp luật hiện hành là cơ sở pháp lý để áp dụng chung cho cả hai loại hợp đồng trên, mặc, dù chúng thuộc đối tượng điều chỉnh của hai ngành luật khác nhau.
Tuy nhiên, yêu cầu của quá trình tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng, đòi hỏi cần phải có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng thương mại. Có thể nói rằng hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại như một cặp song sinh. Vì thế, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng không thể phân biệt được là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại.
Để có thể phân biệt được rõ hai loại hợp đồng này cần phải xác định được cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng. Nếu các bên chủ thể (hoặc ít nhất có một bên) tham gia hợp đồng với mục đích thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng thì hợp đồng đó được xác định là hợp đồng dân sự. Vì vậy, chỉ được coi là hợp đồng thương mại khi các bên chủ thể tham gia đều nhằm mục đích kinh doanh.
Tuy nhiên, mục đích tham gia cũng chỉ là một cơ sở mang tính tương đối trong việc phân biệt giữa hai loại hợp đồng này vì rằng có những hợp đồng cả hai bên đều mang mục đích kinh doanh nhưng không thể coi đó là hợp đồng thương mại được còn nếu có một bên chủ thể là cá nhân không có đăng ký kinh doanh.
>>> Xem thêm: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? – Luật dân sự 2022
Đặc điểm hợp đồng dân sự
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản này xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng đó. Theo đó căn cứ theo quy định tại Điều 385 Bộ Luật dân sự năm 2015, hợp đồng dân sự bao gồm những đặc điểm như sau:
– Thứ nhất, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên, nhưng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí và ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Hợp đồng dân sự này là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người mà tạo lập nên một nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc cụ thể, nếu chỉ là ý chí của một bên thì đó được gọi là hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, thỏa thuận này không dựa trên sự tự nguyện của các bên, tức là không có sự thống nhất ý chí của các bên thì hợp đồng đó sẽ bị tuyên vô hiệu khi có yêu cầu.
Nguyên tắc của pháp luật dân sự hiện hành là bình đẳng, dựa trên sự tự nguyện thiện chí, sự thỏa thuận của các bên nên nếu sẽ không có sự thống nhất ý chí thì không được coi là hợp đồng dân sự. Chỉ khi các bên thống nhất ý chí thì quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên mới phát sinh. Đồng thời, sự thỏa thuận thống nhất ý chí này còn phải phù hợp với ý chí của Nhà nước để Nhà nước kiểm soát và cho phép Hợp đồng dân sự đó phát sinh trên thực tế.
– Thứ hai, hợp đồng dân sự là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý: Xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể.
Sự kiện pháp lý này là sự biến hoặc hành vi mà pháp luật quy định khi xuất hiện thì sẽ xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật nào đó. Hợp đồng dân sự này là một sự kiện pháp lý, theo đó các bên trong quan hệ khi có nhu cầu tham gia giao lưu dân sự nhằm thỏa mãn mục đích của mình sẽ tiến hành thực hiện.
Nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hai nguồn gốc là sự kiện pháp lý hoặc hành vi pháp lý.
Sự kiện pháp lý bao gồm các sự kiện, hợp pháp hoặc không hợp pháp, hoặc tự nguyện (như vi phạm) hoặc không tự nguyện; mà hậu quả pháp lý cụ thể của chúng được xác định không phải bởi các bên mà bởi pháp luật quy định. Tự nguyện trong sự kiện pháp lý chỉ là tự nguyện đối với hậu quả thiệt hại chứ không tự nguyện đối với hậu quả pháp lý. Hành vi pháp lý trên là một sự thể hiện ý chí nhằm làm phát sinh ra một hậu quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi.
Sự thể hiện ý chỉ có thể là có thể là đa phương hoặc đơn phương (như đề nghị giao kết hợp đồng), hay còn gọi là sự thống nhất ý chí, có nghĩa là sự thỏa thuận, mà sự thỏa thuận có mục đích xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi được gọi là hợp đồng. Vậy nên hợp đồng đó thường được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều người xác lập nhằm thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể.
– Thứ ba, nội dung của hợp đồng dân sự là các quyền và nghĩa vụ mà các bên chủ thể quy định cho nhau.
Hợp đồng dân sự là sự thống nhất của ý chí các chủ thể tham gia giao kết, nội dung của hợp đồng phải thể hiện rõ ý chỉ đó của các bên trong phần quyền và nghĩa vụ cụ thể. Vì vậy, hợp đồng này ít nhất phải có hai bên chủ động cùng nhau tạo lập một quan hệ nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Nếu phân tích hợp đồng đó từ các lời hứa hay sự cam kết, thì hợp đồng này có thể được xem là một phương thức mà theo đó người này thương lượng với người khác để hai bên có thể tạo ra sự đảm bảo rằng những lời hứa hay sự cam kết của họ có đời sống dài lâu hơn so với những trạng thái dễ thay đổi trong suy nghĩ của họ. Điều này đồng nghĩa là khi đã cam kết thực sự và mong muốn tạo lập ra một hậu quả pháp lý, những người cam kết bị ràng buộc vào cam kết của mình (trừ trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan) mà pháp luật gọi đó là nghĩa vụ.
– Thứ tư, mục đích của hợp đồng dân sự này là lợi ích hợp pháp, không trái đạo đức xã hội mà các bên cùng hướng tới: Chỉ khi mục đích của hợp đồng dân sự này được chứng minh hoặc được thừa nhận là hợp pháp, không trái quy tắc đạo đức xã hội thì hợp đồng dân sự đó mới phát sinh hiệu lực, qua đó các quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện được trên thực tế.
– Căn cứ theo Điều 402 Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận sáu loại hợp đồng chủ yếu:
Hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây:
1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng dân sự mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng dân sự mà chỉ một bên có nghĩa vụ.
3. Hợp đồng chính là hợp đồng dân sự mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.
4. Hợp đồng phụ là hợp đồng dân sự mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.
5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng dân sự mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba này được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó.
6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng dân sự mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện pháp lý nhất định.
Hợp đồng còn có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều khoản của hợp đồng. Phụ lục hợp đồng dân sự có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ lục hợp đồng dân sự không được trái với nội dung của hợp đồng.
– Trường hợp phụ lục hợp đồng dân sự có điều khoản trái với nội dung của điều khoản trong hợp đồng đó thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
– Trường hợp các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng đó thì có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng này thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi.
Trên đây là thông tin về đặc điểm của hợp đồng dân sự. Nếu bạn còn có thắc mắc nào đến giao dịch dân sự, hãy liên hệ ngay cho chúng tôi qua hotline 1900.6174 để được tư vấn luật dân sự từ các luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý giàu kinh nghiệm.
>>> Xem thêm: Mức phạt vi phạm hợp đồng bao nhiêu? Theo quy định pháp luật
Hình thức của hợp đồng dân sự
Chị Thanh Huyền (Hà Nam) có câu hỏi:
Thưa Luật sư, tôi có vấn đề thắc mắc mong được tư vấn như sau:
Bố mẹ tôi kết hôn năm 1990 và có với nhau một mảnh đất rộng 150m2. Hiện tại có một bên muốn thuê mảnh đất đó để kinh doanh buôn bán. Gia đình tôi dự định sẽ ký kết hợp đồng mua bán đất với người ta. Tuy nhiên, gia đình tôi đang phân vân về hình thức của hợp đồng đó. Vậy thưa Luật sư theo quy của pháp luật hiện hành thì hình thức của hợp đồng dân sự gồm những loại nào?
Tôi xin cảm ơn Luật sư!
>>> Tư vấn hình thức giao dịch dân sự, gọi ngay 1900.6174
Phần trả lời của Luật sư:
Cảm ơn chị Thanh Huyền đã tin tưởng và đặt câu hỏi cho Tổng đài pháp luật! Về vấn đề thắc mắc của chị, Luật sư xin đưa ra câu trả lời như sau:
– Hợp đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên chủ thể tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định của hai bên. Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng này được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự căn cứ theo Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015.
– Hợp đồng dân sự bản chất chính là một giao dịch dân sự, trong đó hình thức của giao dịch dân sự này được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự được thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
– Hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói thường được áp dụng đối với những giao dịch mà giá trị của hợp đồng đó không lớn hoặc các bên tin tưởng,hiểu biết nhau, là đối tác lâu năm của nhau, những giao dịch này mà xác lập và thực hiện kết thúc nhanh chóng (mua bán ngoài chợ) thường gọi là giao kết bằng miệng, các bên khi xác lập hợp đồng dân sự trong trường hợp này cũng có thể chọn người làm chứng tuy nhiên pháp luật hiện hành không bắt buộc điều này.
Đối với trường hợp mà một hợp đồng giao kết bằng hành vi cụ thể thì hai bên không có sự thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc giao kết hợp đồng đó được minh chứng bằng các hành vi như bên mua tiến hành trả tiền hoặc bên bán tiến hành giao hàng.
Với hình thức giao kết bằng văn bản, các bên khi tham gia giao dịch này sẽ thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ của mình sau đó ghi nhận lại bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự đó phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 quy định chi tiết các giao dịch dân sự có liên quan đến bất động sản phải được công chứng hoặc chứng thực cụ thể như sau:
“3.Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện qua các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn bằng các quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất khác phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định căn cứ tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại các quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch đó là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất này được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự hiện hành;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.”
Như vậy, theo quy định luật dân sự hiện hành có 03 loại hình thức cụ thể là lời nói, văn bản và hành vi cụ thể. Theo đó, nếu gia đình anh muốn ký kết hợp đồng dân sự với bên thuê mặt bằng kia thì gia đình anh nên chọn hình thức hợp đồng bằng văn bản và có công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật hiện hành.
Trong quá trình thực hiện thủ soạn thảo hợp đồng, nếu chị Huyền có vướng mắc hãy gọi ngay đến Tổng đài pháp luật qua hotline 1900.6174 để nhận được Luật sư tư vấn miễn phí, chính xác nhất.
>>> Xem thêm: Mẫu hợp đồng đặt cọc mua bán đất đúng chuẩn pháp lý 2022.
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Chị Hà My có câu hỏi:
Thưa Luật sư, tôi có vấn đề thắc mắc mong được giải đáp như sau:
Năm 2020, tôi có mua một chiếc xe SH trị giá 120 triệu đồng. Hiện tại do cần tiền gấp nên tôi muốn bán chiếc xe SH này cho một người bạn của tôi. Tôi đang soạn thảo hợp đồng mua bán tài sản, tuy nhiên tôi lại chưa rõ về điều kiện có hiệu lực của một bản hợp đồng dân sự.
Vậy tôi mong muốn Luật sư có thể tư vấn, giải đáp cho tôi về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự? Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư!
>>> Hướng dẫn cách soạn hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp lý. Liên hệ Luật sư 1900.6174
Trả lời:
Người tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự
Người tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự. Chủ thể giao kết hợp đồng này bao gồm các cá nhân gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, hộ gia đình và pháp nhân. Các bên chủ thể này phải đáp ứng được điều kiện nhất định như sau:
Đối với cá nhân:
– Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Tự mình xác lập và thực hiện hợp đồng dân sự.
– Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: Tự mình xác lập và thực hiện các hợp đồng dân sự, trừ giao dịch liên quan đến động sản, bất động sản phải đăng ký và các giao dịch khác phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
– Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: Xác lập, thực hiện các hợp đồng phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của mình.
– Cá nhân chưa đủ 6 tuổi: Do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
– Người mất năng lực hành vi dân sự: do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
Cá nhân bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
– Cơ sở pháp lý: Căn cứ theo Điều 20 đến Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015
Đối với pháp nhân:
– Hộ gia đình, pháp nhân, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện hợp pháp của mình.
– Thực hiện trong phạm vi đại diện và tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với phạm vi hoạt động.
– Cơ sở pháp lý: Căn cứ tại các Điều 135, 136, 137, 138, 141 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 2 công văn số 152/TANDTC-PC 19 tháng 7 năm 2017.
– Người tham gia hợp đồng này phải hoàn toàn tự nguyện
– Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là các bên tham gia giao dịch này hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện thoả thuận về nội dung của giao dịch đó, không bị lừa dối, đe dọa và cưỡng ép từ phía bên kia hoặc của người khác;
– Các bên tham gia tự nguyện thỏa thuận các vấn đề nhằm làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình.
– Cơ sở pháp lý: Căn cứ tại các Điều 117, 127 Bộ luật Dân sự năm 2015
Mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội
– Điều cấm của pháp luật là những quy định của luật hiện hành không cho phép chủ thể hợp đồng thực hiện những hành vi nhất định.
– Đạo đức xã hội là những quy tắc chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
– Để hợp đồng này có hiệu lực thì mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của luật, trái quy tắc đạo đức xã hội, nếu có thì vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự.
– Cơ sở pháp lý: Căn cứ tại các Điều 117, 118, 123 Bộ luật Dân sự năm 2015
Hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật
– Giao dịch dân sự được thể hiện qua lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể;
– Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản;
– Với một số loại hợp đồng có điều kiện là buộc lập thành văn bản có công chứng, chứng thực thì các bên khi giao kết hợp đồng đó phải tuân thủ quy định này.
– Cơ sở pháp lý: căn cứ tại các Điều 117, 119 Bộ luật Dân sự năm 2015
Căn cứ quy định điều luật nêu trên, để hợp đồng giao dịch dân sự của chị Hà My có hiệu lực cần phải đáp ứng đủ các điều kiện được nêu bên trên. Nếu chị Hà My còn vướng mắc nào khác liên quan đến giao dịch dân sự hay vấn đề pháp lý, hãy gọi ngay đến hotline 1900.6174 để được hỗ trợ nhanh chóng nhất.
Hợp đồng dân sự vô hiệu trong trường hợp nào?
Anh Duy Tân (Cầu Giấy) có câu hỏi:
Thưa Luật sư, tôi có thắc mắc mong được giải đáp như sau:
Tôi là một chủ của cửa hàng chuyên buôn bán xe máy cũ tại quận Cầu Giấy. Hôm nọ có một cậu bé đến mua một chiếc xe máy dream của bên tôi với giá trị 12 triệu đồng. Tôi và cậu bé không có ký kết hợp đồng nào cả mà hai bên chỉ thỏa thuận đưa tiền và bàn giao xe.
Tuy nhiên, đến hôm nay có một người tự xưng là bố cậu bé này đến quán tôi yêu cầu trả xe và cho rằng hợp đồng dân sự bằng lời nói kia vô hiệu. Tôi hỏi ra mới biết cậu bé này mới có 14 tuổi.
Vậy thưa Luật sư, theo quy định pháp luật hiện hành thì hợp đồng vô hiệu trong những trường hợp nào và đối với trường hợp của tôi nên trên có vô hiệu hay không? Mong Luật sư tư vấn!
>>> Hợp đồng dân sự vô hiệu phải làm gì? Luật sư tư vấn miễn phí 1900.6174
Phần trả lời của Luật sư:
Cảm ơn anh Duy Tân đã tin tưởng và đặt câu hỏi cho Tổng đài pháp luật! Về vấn đề thắc mắc của anh, Luật sư xin đưa ra câu trả lời như sau:
Hợp đồng là sự thỏa thuận, trao đổi và thống nhất ý chí của các bên để đạt được mục đích là xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.
Căn cứ theo Điều 123 đến Điều 133, Điều 407, Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu trong những trường hợp sau:
1. Nội dung của hợp đồng dân sự có vi phạm các điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội;
2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, trừ trường hợp:
+ Hợp đồng chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người mất, hạn chế năng lực hành vi;
+ Hợp đồng dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày;
+ Hợp đồng dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
3. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo;
4. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
5. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, trừ các trường hợp sau đây:
+ Mục đích xác lập hợp đồng dân sự của các bên đã đạt được;
+ Hoặc các bên có thể tự khắc phục ngày được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự này vẫn đạt được.
6. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập hợp đồng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình;
7. Hình thức của hợp đồng dân sự không tuân thủ theo quy định, trừ trường hợp sau đây:
Hợp đồng đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm các quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một hoặc các bên trong hợp đồng đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch.
Hợp đồng có điều kiện phải lập thành văn bản nhưng các bên trong hợp đồng không lập hoặc văn bản không đúng quy định mà một hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trên;
Hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được cho nên bị vô hiệu.
Như vậy, đối với trường hợp của anh Duy Tân, do cậu bé kia mới chỉ 14 tuổi nên mọi giao dịch dân sự của cậu bé này phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Do đó hợp đồng mua bán chiếc xe máy bằng miệng đó là hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật hiện hành.
Trên đây là toàn bộ thông tin mà Tổng đài pháp luật cung cấp về vấn đề hợp đồng dân sự. Hy vọng bài viết phần nào sẽ giúp các bạn đọc có thêm những thông tin hữu ích để áp dụng trọng những trường hợp cụ thể của mình. Nếu bạn đọc còn có bất cứ thắc mắc nào về các vấn đề pháp lý ký kết hợp đồng dân sự, hãy nhấc máy và gọi ngay đến đường dây nóng 1900.6174 để được hỗ trợ nhanh chóng và chính xác nhất.