Chỉ thị 04/CT-UBND năm 2015 về tăng cường chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh nhằm giảm tử vong mẹ và sơ sinh do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ban hành

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH

——-

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————

Số: 04/CT-UBND

Quảng Bình, ngày 24 tháng 03 năm 2015

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE BÀ MẸ VÀ TRẺ SƠ SINH NHẰM GIẢM TỬ VONG MẸ, TỬ VONG SƠ SINH

Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư của Đảng và Nhà nước, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Các chỉ số về sức khỏe bà mẹ, trẻ em Việt Nam đã được khá tốt so với nhiều Quốc gia có thu nhập bình quân đầu người tương tự. Tử vong mẹ và tử vong trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm gần 4 lần từ 233/100.000 trẻ đẻ sống từ năm 1990 ước còn lại khoảng 60/100.000 sơ sinh sống năm 2014. Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm gần 3 lần từ 44,4‰ vào năm 1990 xuống còn 14,9‰ năm 2014, tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm hơn một nữa từ 58‰ vào năm 1990 xuống còn 22,4‰ năm 2014.

Mặc dù có sự cải thiện rõ rệt về tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em nhưng vẫn còn sự khác biệt về tử vong mẹ, tử vong trẻ em và tử vong sơ sinh giữa các vùng miền. Tử vong sơ sinh vẫn còn cao, chiếm 70% tỷ lệ tử vong dưới 1 tuổi. Tốc độ giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em trong những năm gần đây đã có xu hướng giảm chậm lại, nếu không có giải pháp quyết liệt và đầu tư thỏa đáng thì sẽ khó có thể đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ em vào năm 2015 như đã cam kết với cộng đồng quốc tế.

Tại Việt Nam tuy tỷ suất tử vong mẹ và tử vong sơ sinh đã giảm mạnh, nhưng ước tính mỗi năm vẫn còn khoảng 580 – 600 trường hợp tử vong mẹ và khoảng trên 10.000 trường hợp tử vong sơ sinh.

Tại Quảng Bình trong những năm qua, ngành y tế đã có nhiều hoạt động để giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh và tử vong mẹ, nhưng tình trạng tử vong mẹ và sơ sinh vẫn còn (năm 2013 tỷ lệ tử vong sơ sinh 7,3‰, năm 2014 chiếm 5,1‰).

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau khi sinh của người dân cũng như chất lượng dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế. Phong tục tập quán lạc hậu trong chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, tình trạng phụ nữ đẻ tại nhà không được nhân viên y tế đỡ còn phổ biến ở khu vực miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt ở các bệnh viện tuyến huyện chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc điều trị cấp cứu sản khoa và sơ sinh; nhân lực chuyên ngành sản phụ khoa và nhi khoa còn rất thiếu, nhất là tại tuyến huyện, tỷ lệ bác sĩ đa khoa làm công tác sản khoa và nhi khoa khá lớn; năng lực chuyên môn cán bộ y tế đặc biệt y tế cơ sở còn nhiều hạn chế trong phân loại phát hiện nguy cơ, theo dõi tiên lượng và xử trí cấp cứu và hồi sức sơ sinh.

Để khắc phục thực trạng trên, nhằm tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, góp phần làm giảm hơn nữa tử vong mẹ, tử vong sơ sinh trên địa bàn tỉnh ta trong thời gian tới, UBND tỉnh yêu cầu:

1. Sở Y tế

1.1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan đơn vị liên quan:

– Tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở khám, chữa bệnh trên địa bàn để chấn chỉnh việc thực hiện Luật Khám bệnh, chữa bệnh; các quy định liên quan của pháp luật; quy chế bệnh viện và các quy trình, quy chuẩn chuyên môn về chẩn đoán, theo dõi, cấp cứu sản khoa, cấp cứu hồi sức sơ sinh.

– Rà soát tình hình cán bộ về số lượng và năng lực; trang thiết bị và tổ chức nhân sự làm công tác chăm sóc sản khoa, nhất là công tác cấp cứu sản khoa ở các tuyến y tế trên địa bàn; những cơ sở không đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết theo quy định thì phải được kịp thời củng cố, tăng cường hoặc tạm thời không triển khai công tác đỡ đẻ.

– Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các cơ sở y tế tư nhân về giấy phép hoạt động, phạm vi chuyên môn, điều kiện và năng lực thực tế về chăm sóc, cấp cứu sản khoa và sơ sinh; xử lý nghiêm các trường hợp và cơ sở vi phạm theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh và các quy định hiện hành của pháp luật.

– Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức mạng lưới khám, chữa bệnh sản phụ khoa và nhi khoa trên địa bàn, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cần thiết cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em, đặc biệt cho các nội dung về làm mẹ an toàn và chăm sóc sơ sinh. Quan tâm đầu tư cho các bệnh viện huyện ở xa trung tâm tỉnh để có thể thực hiện chăm sóc sản khoa toàn diện (có thể mổ đẻ và truyền máu);

– Xây dựng kế hoạch củng cố hoặc thành lập (nếu chưa có) các đơn nguyên sơ sinh thuộc khoa nhi đối với bệnh viện đa khoa tỉnh, huyện; thành lập đơn vị hồi sức sơ sinh thuộc khoa sơ sinh tại bệnh viện sản – nhi, bệnh viện chuyên khoa sản và bệnh viện nhi tuyến tỉnh.

– Tham mưu UBND tỉnh có kế hoạch triển khai Chương trình hành động “Giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh hướng tới thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ 4 và 5”.

1.2. Chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sản phụ khoa và nhi khoa các tuyến:

– Tăng cường tuyên truyền, giáo dục vận động để các bà mẹ có thai được khám thai, quản lý thai sớm, biết được các dấu hiệu nguy cơ khi mang thai, lựa chọn và quyết định nơi sinh phù hợp;

– Thực hiện đúng quy trình khám thai, phát hiện sớm các nguy cơ và tai biến có thể xảy ra đối với sản phụ và thai nhi trong quá trình mang thai để xử trí hoặc chuyển tuyến kịp thời;

– Theo dõi chặt chẽ trong quá trình chuyển dạ nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu nguy cơ để xử trí kịp thời. Thực hiện theo dõi chuyển dạ bằng biểu đồ chuyển dạ, đỡ đẻ đúng kỹ thuật, can thiệp thủ thuật, phẫu thuật đúng chỉ định. Thực hiện thường quy chăm sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Bảo đảm cấp cứu, chuyển tuyến kịp thời hoặc mời y tế tuyến trên xuống hỗ trợ tại chỗ trong các trường hợp cần thiết. Thực hiện nghiêm quy định kiểm soát nhiễm khuẩn;

– Thực hiện tốt việc chăm sóc, theo dõi sản phụ và trẻ sơ sinh ngày đầu và tuần đầu sau đẻ đặc biệt là theo dõi tích cực trong 6 giờ đầu nhằm phát hiện sớm những bất thường của cả mẹ và con để xử trí kịp thời. Bảo đảm cho trẻ sơ sinh được tiêm vitamin K1, tiêm vắc xin phòng viêm gan B và các loại vắc xin khác thuộc Chương trình Tiêm chủng mở rộng;

– Tăng cường sự phối hợp giữa chuyên khoa sản với chuyên khoa nhi và hồi sức cấp cứu trong chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, đặc biệt trong việc xử lý cấp cứu, hồi sức sơ sinh tại phòng đẻ. Đối với các trường hợp đẻ non, đẻ thiếu cân, các bác sĩ nhi khoa phải có mặt để cùng tham gia hồi sức cấp cứu;

– Tích cực triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, giảm quá tải bệnh viện; thường xuyên nhắc nhở cán bộ, viên chức trong các khoa, phòng, đơn vị sự nghiệp y tế nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh, tuân thủ nghiêm quy chế bệnh viện, quy trình chuyên môn theo quy định của Bộ Y tế.

1.3. Chỉ đạo Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh:

– Phối hợp với các chuyên khoa sản, chuyên khoa nhi của các bệnh viện cập nhật quy trình kỹ thuật, hướng dẫn chuyên môn về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, về cấp cứu, hồi sức sản khoa và sơ sinh.

– Xây dựng, hoàn thiện chương trình, tài liệu, kế hoạch đào tạo liên tục và tổ chức đào tạo nâng cao năng lực thực hành chăm sóc, cấp cứu sản khoa và sơ sinh cho đội ngũ cán bộ y tế đang công tác trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về sản khoa và nhi khoa.

– Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cập nhật kiến thức, nâng cao năng lực thực hành cho cán bộ y tế các tuyến về cấp cứu hồi sức sản khoa, cấp cứu hồi sức sơ sinh; tổ chức đào tạo lại cho cán bộ y tế làm công tác sản khoa ở các tuyến để đạt tiêu chí về người đỡ đẻ có kỹ năng theo tài liệu hướng dẫn và quy định của Bộ Y tế. Tiếp tục đào tạo và củng cố, duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ thôn bản ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

2. Sở Kế hoạch – Đầu tư và Sở Tài chính

– Đưa mục tiêu triển khai Chương trình hành động “Giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh hướng tới thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ 4 và 5” vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

– Bố trí nguồn kinh phí cho công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh theo kế hoạch và phối hợp kiểm tra thực hiện nguồn ngân sách theo đúng quy định.

3. Sở Thông tin và Truyền thông

– Sở Thông tin và Truyền thông chỉ đạo Đài Phát thanh – Truyền hình Quảng Bình, Báo Quảng Bình và các cơ quan báo chí trên địa bàn đẩy mạnh tuyên truyền công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và phòng chống các tai biến sản khoa; tăng cường tuyên truyền các hoạt động thông tin – truyền thông – giáo dục sức khỏe nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ, hành vi của người dân, đặc biệt người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa về chăm sóc thai nghén, nguy cơ của việc không khám thai định kỳ và không đến sinh con ở các cơ sở y tế hoặc tự đỡ đẻ, đỡ đẻ không có cán bộ y tế được đào tạo đỡ.

– Đài Phát thanh – Truyền hình Quảng Bình, Báo Quảng Bình ưu tiên thời lượng phát sóng, số trang báo để đăng tải các thông tin về các biện pháp đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và phòng chống các tai biến sản khoa.

– Phối hợp với Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe tỉnh xây dựng tài liệu, kế hoạch truyền thông giáo dục sức khỏe và đẩy mạnh các hoạt động truyền thông chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và phòng chống các tai biến sản khoa.

4. UBND các huyện, thị xã, thành phố

Chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn và các phòng, ban liên quan tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện sớm các trường hợp tử vong mẹ và trẻ sơ sinh trên địa bàn đồng thời tuyên truyền vận động các ban ngành có liên quan tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh; đưa mục tiêu giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm.

Yêu cầu các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện nghiêm túc các nội dung của Chỉ thị này. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc kịp thời báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh (qua Sở Y tế) để xem xét, chỉ đạo./.

 

KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH


Trần Tiến Dũng