Quyền nhân thân là gì? Quy định pháp luật về quyền nhân thân

Quyền nhân thân là gì? Được hiểu là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho mỗi cá nhân tồn tại với tư cách là một thực thể hoặc mỗi chủ thể độc lập trong xã hội. Vậy đặc điểm của quyền này là gì? Quyền này trong các Bộ luật hiện hành được quy định như thế nào? Trong bài viết dưới đây, Luật sư của Tổng Đài Pháp Luật sẽ cùng bạn tìm hiểu về vấn đề này một cách chi tiết nhất. Trong trường hợp bạn gặp vướng mắc liên quan đến các vấn đề pháp lý, hãy liên hệ ngay hotline 1900.6174 để được luật sư hỗ trợ kịp thời!

>>Tư vấn quy định về quyền nhân thân là gì? Gọi ngay 1900.6174

Quyền nhân thân là gì?

 

>> Quyền nhân thân là gì, gọi ngay 1900.6174

 

Hiện nay, trong quy định của pháp luật hay công trình nghiên cứu khoa học vẫn chưa có một khái niệm nào chính xác nhất về quyền nhân thân là gì? Theo đó, tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền nhân thân như sau:

“Điều 25. Quyền nhân thân

1. Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.”

Như vậy, theo quy định trên, chúng ta có thể hiểu định nghĩa quyền nhân thân là quyền của mỗi cá nhân đối với các giá trị nhân thân của mình đã được pháp luật ghi nhận, bảo vệ.

Trên đây là khái niệm về quyền nhân thân là gì theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp tư vấn của luật sư chưa được rõ ràng, hãy liên hệ ngay hotline 19006174 để được giải đáp chi tiết nhất!

Tổng Đài Pháp Luật là đơn vị chuyên tư vấn luật trên mọi lĩnh vực như: tư vấn luật dân sự, tư vấn luật hình sự, tư vấn luật đất đai,… Tổng đài sở hữu đội ngũ luật sư có trình độ chuyên môn cao và nhiều năm kinh nghiệm giải quyết thành công nhiều vấn đề trong thực tế. Mọi vướng mắc liên quan đến các vấn đề pháp lý, hãy gọi ngay đến đường dây nóng 1900.6174 để được luật sư tư vấn trực tiếp!

Đặc điểm của quyền nhân thân là gì?

>> Quyền nhân thân có đặc điểm gì? Gọi ngay 1900.6174

 

Bản chất của quyền nhân thân là một trong những bộ phận thuộc quyền dân sự, do đó, quyền nhân thân sở hữu đầy đủ các đặc điểm của quyền dân sự nói chung. Bên cạnh đó, quyền nhân thân còn mang một số đặc điểm khác có tính chất riêng biệt nhằm phân biệt rõ nét nhất với quyền tài sản. Đặc điểm của quyền nhân thân bao gồm:

Thứ nhất, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản

Không giống với quyền tài sản, đối tượng của quyền nhân thân chính là một giá trị tinh thần. Vì thế, quyền nhân thân không được thể hiện bằng vật chất hoặc không được quy đổi bằng tiền hay nói chung lại là mang giá trị tinh thần. Thực tế, giá trị tinh thần và tiền tệ là hai đại lượng không có tính chất tương đương, do đó, chắc chắn không thể trao đổi ngang giá hai đại lượng này. Như vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ người nào khác. Đơn giản một cá nhân thì không thể kê biên quyền nhân thân của một con nợ. Từ trước tới nay, pháp luật đã quy định các chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân. Theo đó, mỗi một chủ thể đều có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng giá trị đó đều được pháp luật bảo vệ như nhau khi bị xâm phạm.

Thứ hai, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển dịch

Mỗi chủ thể trong xã hội đều mang giá trị nhân thân có tính chất đặc trưng, chính vì thế, quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Tuy nhiên, quyền nhân thân của chủ thể không bị lệ thuộc hay bị chi phối bởi bất kỳ một yếu tố khách quan nào khác như: độ tuổi, giới tính, địa vị xã hội, trình độ,…

Theo đó, quyền nhân thân không thể chuyển dịch tức nghĩa là quyền nhân của mỗi chủ thể chỉ do chính chủ thể, cá nhân đó hoặc trong trường hợp do chủ thể khác đã được pháp luật quy định thực hiện. Do đó, quyền nhân thân không thể là các đối tượng trong các giao dịch liên quan đến mua bán, trao đổi, tặng, cho,…

Ví dụ: Trong Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 ghi nhận quyền công bố tác phẩm của các tác giả, tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp có thể được chuyển giao chủ thể khác mà không phải trong mọi trường hợp tác giả là người công bố.

Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.

Thứ tư, quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Trong đó, các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhân thân được pháp luật bảo vệ.

Trên đây là giải đáp của Luật sư Tổng Đài Pháp Luật về đặc điểm của quyền nhân thân là gì? Nếu bạn đọc còn bất kỳ các vướng mắc khác liên quan đến vấn đề này, hãy gọi ngay đến đường dây nóng 1900.6174 để được tư vấn trọn vẹn nhất!

 

>> Xem thêm: Mẫu giấy xác nhận nhân thân với người đã mất mới nhất [cập nhật 2022]

Quy định về quyền nhân thân trong pháp luật dân sự

 

>> Quyền nhân thân được pháp luật quy định như thế nào? Gọi ngay 1900.6174

 

– Quyền có họ, tên (Quy định tại Điều 26 Bộ luật dân sự năm 2015):

Mỗi cá nhân có quyền có họ, tên bao gồm cả chữ đệm (nếu có). Theo đó, họ, tên của người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó và họ của mỗi cá nhân thì được xác định theo họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ tùy thuộc vào thỏa thuận của cha mẹ. Trong trường hợp cha mẹ không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán.

Còn trong trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con sẽ được xác định theo họ của mẹ. Đối với những trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha ruột, mẹ ruột và được nhận làm con nuôi thì họ của con được xác định theo họ của cha nuôi hoặc mẹ nuôi tùy thuộc theo thỏa thuận của cha nuôi, mẹ nuôi. Nếu chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của con được xác định theo họ của người đó.

Trẻ em thuộc trường hợp bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi, trường hợp này họ của con được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó nuôi dưỡng tạm thời. Theo quy định của Bộ luật này thì cha đẻ, mẹ đẻ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ căn cứ theo quy định trong Bộ luật hôn nhân và gia đình.

– Quyền thay đổi họ (Quy định tại Điều 27 Bộ luật dân sự năm 2015): Mỗi cá nhân đều có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận về việc thay đổi họ trong các trường hợp dưới đây:

Thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại; thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc mẹ nuôi tùy thuộc theo yêu cầu của cha nuôi và mẹ nuôi; trường hợp con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ; thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc của con khi xác định cha, mẹ cho con; thay đổi họ của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc chung huyết thống của mình; thay đổi họ theo họ của vợ, họ của chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài sao cho phù hợp với pháp luật của quốc gia mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi; thay đổi họ của con khi cha, mẹ thay đổi họ; trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.

– Quyền thay đổi tên (Quy định tại Điều 28 Bộ luật dân sự 2015): Mỗi cá nhân đều có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận về việc thay đổi tên trong các trường hợp:

Đổi tên theo yêu cầu của người có tên nhưng việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó; theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt; theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình; thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi; thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính; trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.

– Quyền xác định, xác định lại dân tộc (Căn cứ theo quy định tại Điều 29 Bộ luật dân sự 2015): Mỗi cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.

Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn (đây là một trong những điểm mới quan trọng của Bộ luật dân sự năm 2015 liên quan đến các quy định quyền nhân thân của cá nhân). Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Quyền được khai sinh, khai tử (Điều 30 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh. Cá nhân chết phải được khai tử. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.

– Quyền đối với quốc tịch (Điều 31 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền có quốc tịch. Việc xác định, thay đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam do Luật quốc tịch Việt Nam quy định. Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật.

– Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.

So với Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung một quy định mới là: Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

– Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.

– Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015): Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng. Đây là một trong những điểm mới tiến bộ của Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2015 nhằm bảo đảm cho các cá nhân tự mình bảo vệ quyền của bản thân khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

– Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (Điều 35 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.

– Quyền xác định lại giới tính (Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.

– Chuyển đổi giới tính (Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015): Một trong những điểm nổi bật về quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2015 chính là việc chuyển đổi giới tính.

Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.

Quy định này nhằm tạo cơ chế pháp lý chống phân biệt đối xử đối với người chuyển đổi giới tính, qua đó, góp phần bảo đảm cho họ có địa vị pháp lý bình đẳng như những cá nhân khác, đồng thời, bảo đảm sự minh bạch trong việc thực hiện các quyền nhân thân, tài sản của chủ thể này trong các quan hệ dân sự. Đây là một trong những quy định tiến bộ, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong các quốc gia có quy định pháp lý cụ thể để bảo vệ quyền của người chuyển đổi giới tính nói riêng và quyền của nhóm người đồng tính, song giới, chuyển giới nói chung, phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc được thông qua vào tháng 9/2014 về nhân quyền, xu hướng tình dục và giới tính.

– Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015): Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

– Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015): Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con, quan hệ giữa các thành viên gia đình. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.

 

>> Xem thêm: Làm lại giấy khai sinh cần những gì? Thủ tục cần thiết

 

Quyền nhân thân trong Luật sở hữu trí tuệ

 

>> Quyền nhân thân trong Luật sở hữu trí tuệ quy định như thế nào? Gọi ngay 1900.6174

 

– Quyền nhân thân của tác giả (Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005):

“Điều 19. Quyền nhân thân

Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:

1. Đặt tên cho tác phẩm;

2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.”

Thứ nhất, quyền đặt tên cho tác phẩm

Quyền đặt tên cho tác phẩm có ý nghĩa về cá biệt hóa tác phẩm của tác giả. Trong đó, tên tác phẩm thường phản ánh về nội dung, ý tưởng trong tác phẩm của tác giả. Điều này sẽ giúp cho độc giả, công chúng có thể dễ dàng tiếp cận, biết đến với ý đồ của tác giả. Tuy nhiên, việc đặt tên tác phẩm không mang ý nghĩa về mặt pháp lý trong việc bảo hộ quyền tác giả và tác phẩm có thể được bảo hộ trong trường hợp đó là tác phẩm vô đề.

Do đó, quyền đặt tên cho tác phẩm chính là quyền nhân thân chỉ thuộc về tác giả của tác phẩm, kể cả trường hợp tác giả đưa ra tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng thì quyền đặt tên cho tác phẩm vẫn chỉ thuộc về tác giả. Theo đó, quyền đặt tên cho tác phẩm không được áp dụng trường hợp tác giả chỉ dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.

Thứ hai, quyền đứng tên hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng

Tác phẩm chính là kết quả hoạt động, quá trình sáng tạo của tác giả, vì thế, khi muốn khẳng định được kết quả đó, tác giả là người đứng tên trên tác phẩm, có thể sử dụng tên thật hoặc bút danh của tác giả. Việc đứng tên trên tác phẩm được công bố, sử dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khẳng định chủ thể được hưởng quyền nhân thân và quyền về tài sản đối với tác phẩm. Kể cả khi tác giả không để tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm đã được công bố hay còn được gọi là tác phẩm khuyết danh thì quyền đứng tên này vẫn thuộc về tác giả, theo đó, tác giả có thể chứng minh tư cách là chủ thể của tác phẩm của mình bất kỳ thời điểm nào. Ngoài ra, tác giả cũng có quyền yêu cầu được nêu tên hoặc bút danh của mình khi tác phẩm được sử dụng bằng các hình thức như: biểu diễn, ghi âm, ghi hình, phát thanh, truyền hình, xuất bản hoặc trích dẫn tác phẩm,… Chính vì thế, khi bất kỳ tác phẩm nào được công bố và sử dụng, tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm phải nêu rõ tên thật hoặc bút danh của tác giả sáng tác ra tác phẩm đó.

Thứ ba, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là quyền nhân thân duy nhất gắn liền với quyền tài sản, do đó, có thể chuyển giao về thời hạn bảo hộ tương đương với thời hạn bảo hộ quyền tài sản.

Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành, công bố tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đầy đủ nhất để đáp ứng nhu cầu của độc giả, công chúng tùy thuộc vào bản chất của tác phẩm, do tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả đó thực hiện hoặc cũng có thể do cá nhân, tổ chức khác thực hiện thay khi được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đó.

Thứ tư, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xé hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm có vai trò quan trọng nhất. Trong thực tiễn hiện nay, quyền này cũng thường bị xâm phạm.

Tác phẩm chính là sự sáng tạo, thể hiện nội dung, tư tưởng, ý đồ nghệ thuật độc đáo của tác giả. Do đó, việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào có thể gây ảnh hưởng đến giá trị nội dung cũng như ý đồ nghệ thuật mà tác giả muốn truyền đạt hoặc làm sai lệch thông tin, bóp méo tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Chính vì vậy, không có bất kỳ chủ thể nào khác ngoài tác giả mới có quyền được thay đổi thông tin, nội dung của tác phẩm kể cả trường hợp tác giả thay đổi với mục đích nhằm tăng tính nghệ thuật, giá trị nội dung, giá trị thực tiễn của tác phẩm, trừ khi đã được tác giả cho phép. Ngoài ra, cần lưu ý một số trường hợp ngoại lệ đối với quyền này:

(i) trường hợp trích dẫn hợp lý tác phẩm vì mục đích giảng dạy, nghiên cứu không bị coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm;

(ii) trường hợp sau khi tác phẩm được công bố, những người khác làm tác phẩm phái sinh, có những thay đổi, sáng tạo mới về nội dung, hình thức thể hiện hay truyền đạt so với tác phẩm ban đầu cũng không bị coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.

Tuy nhiên, việc sửa chữa cắt xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả có thể hiểu là khi một người có hành vi thực hiện sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm của người khác nhưng nếu người đó chứng minh được hành vi đó không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả hoặc chứng minh hành vi đó làm cho tác phẩm tăng thêm giá trị nghệ thuật, giá trị thực tiễn thì không vi phạm Khoản 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005.

>> Xem thêm: Quyền sở hữu tài sản gồm những quyền nào? [Cập nhật 2022]

Phân biệt quyền nhân thân và quan hệ nhân thân

 

>>Quyền nhân thân và quan hệ nhân thân có điểm gì khác nhau? Gọi ngay 1900.6174

 

 

Quyền nhân thân Quan hệ nhân thân
Khái niệm Theo quy định trong Điều 25 Bộ luật dân sự 2015, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp bộ luật khác có liên quan quy định khác Quan hệ nhân thân có thể được hiểu là các quan hệ xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, trong đó giá trị tinh thần có thể gắn liền với lợi ích kinh tế hoặc không có thể không gắn liền với lợi ích kinh tế. Ngoài ra, quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự

Quan hệ nhân thân phát sinh từ lợi ích tinh thần, luôn gắn liền với chủ thể và không mang tính chất hàng hóa – tiền tệ, do đó không thể tính bằng trị giá. Nếu quan hệ tài sản có sự dịch chuyển tài sản thì quan hệ nhân thân không thể thực hiện việc dịch chuyển các giá trị tinh thần.

Đặc điểm Quyền nhân thân là quyền dân sự được pháp luật bảo vệ, tất cả mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân và quyền nhân thân có tính chất phi tài sản, gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao trừ khi pháp luật có quy định khác liên quan. Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự luôn có sự liên quan đến lợi ích tinh thần.

Quan hệ nhân thân không được xác định bằng tiền tệ bởi giá trị nhân thân và tiền tệ là hai đại lượng tương đương, không thể trao đổi.

Các lợi ích tinh thần của quyền nhân thân luôn gắn liền với chủ thể. Theo đó, pháp luật dân sự quy định quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác.

Các lợi ích về tinh thần không thể bị hạn chế hoặc ước bỏ ngoại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác liên quan.

Phân loại Nhóm quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ về hôn nhân và gia đình

Nhóm quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân

Nhóm quyền nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể

Nhóm quyền nhân thân đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ

Quyền nhân thân gắn với tài sản

Quyền nhân thân không gắn với tài sản

Bản chất, mối quan hệ Quyền nhân thân được coi là tiền đề cho sự hình thành nên quan hệ nhân thân

Ngoài ra, quyền nhân thân do luật quy định và được pháp luật bảo vệ

Quan hệ nhân thân được hiểu là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hoặc tổ chức. Quan hệ nhân thân phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật, đó là các quy định trong Bộ luật dân sự về quyền nhân thân, các sự kiện pháp lý và năng lực chủ thể. Có các quy định về quyền nhân thân mới phát sinh về quan hệ nhân thân.
Cơ sở phát sinh Quyền nhân thân được pháp luật ban hành và thừa nhận cho các chủ thể. Chính vì thế, quyền nhân thân có một mối quan hệ hữu cơ đối với cá nhân từ khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết. Trong đó, mỗi cá nhân sinh ra đều bình đẳng về quyền nhân thân. Để xác lập nên quan hệ nhân thân bên cạnh việc căn cứ các quy định về quyền nhân thân thì khi tham gia quan hệ phải có năng lực chủ thể cũng như sự kiện pháp lý. Hay có nghĩa là trong quan hệ nhân thân thì chỉ có quyền nhân thân được đề cập tới mà quy định của pháp luật dân sự khác như độ tuổi, năng lực hành vi dân sự,…cũng là những yếu cần xem xét có phát sinh quan hệ nhân thân hay không.

 

Trên đây là những nội dung về liên quan đến vấn đề quyền nhân thân là gì mà Luật sư của Tổng Đài Pháp Luật chia sẻ. Hy vọng thông tin trên sẽ giúp bạn hiểu rõ các quy định của pháp luật hiện nay về quyền nhân thân cũng như phân biệt giữa quyền nhân thân và quan hệ nhân thân. Trong trường hợp bạn còn bất kỳ vướng mắc nào khác liên quan tới vấn đề này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi qua tổng đài 1900.6174 để được Luật sư tư vấn chi tiết nhất!