Điều 21 bộ luật dân sự 2015 bao gồm các quy định, nội dung chi tiết về người chưa thành niên. Đây là những người thường không được xem là có đủ năng lực hành vi dân sự và hình sự, và do đó không chịu trách nhiệm pháp lý như những người đã trưởng thành. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về người chưa thành niên theo điều 21 BLDS 2015 . Nếu có bất kỳ thắc mắc nào trong quá trình tìm hiểu, hãy liên hệ với đội ngũ tư vấn của Tổng Đài Pháp Luật qua hotline: 1900.6174 để được tư vấn miễn phí.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Thế nào là người chưa thành niên?
Người chưa thành niên là một khái niệm được định nghĩa và áp dụng khác nhau trong các hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia. Dưới đây là một số định nghĩa:
Người chưa thành niên trong pháp luật quốc tế
– Công ước về Quyền trẻ em năm 1989:
Công ước này đã rõ ràng quy định: “Trẻ em được hiểu là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trong trường hợp có quy định tuổi thành niên sớm hơn theo pháp luật, áp dụng cho trẻ em đó.”
– Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do năm 1990:
Liên Hợp Quốc đã định nghĩa một cách rõ ràng hơn, xác định “Người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi.”
– Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người chưa thành niên năm 1985 (Các quy tắc Bắc Kinh):
Theo quy tắc này, “Trẻ em hoặc thanh thiếu niên có thể bị xử lý khi phạm tội theo một cách riêng biệt so với người lớn, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của từng quốc gia.”
Mặc dù có sự đồng thuận trong quốc tế về tuổi 18 là độ tuổi chính thức của người chưa thành niên, nhưng một số quốc gia có quy định khác:
– Quốc gia như Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia, Colombia, New Zealand đều xác định rằng người dưới 18 tuổi được coi là người chưa thành niên.
– Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan có định nghĩa khác biệt, xem xét người dưới 20 tuổi là người chưa thành niên.
Các định nghĩa từ các tổ chức và chương trình quốc tế
– Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Quy định độ tuổi từ 10 đến 17 tuổi là độ tuổi vị thành niên.
– Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên – thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc cũng lấy độ tuổi từ 10 đến 17 tuổi.
Tóm lại, khái niệm và độ tuổi của người chưa thành niên không được quy định một cách thống nhất trên toàn cầu. Sự đa dạng này phản ánh sự linh hoạt và sự phù hợp với bản sắc văn hóa, xã hội và pháp luật của từng quốc gia.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Người chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật Việt Nam, các khái niệm “trẻ em” và “người chưa thành niên” không hoàn toàn tương đồng với các quy định quốc tế. Theo Luật trẻ em năm 2016, Việt Nam xác định trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Dù rằng có những đề xuất để điều chỉnh độ tuổi này theo các quy ước và văn kiện quốc tế, song những người tham gia viết luật đã quyết định giữ nguyên định nghĩa này.
– Bộ luật Dân sự 2015: Định nghĩa “người chưa thành niên” là những người dưới 18 tuổi (Xem Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015).
– Bộ luật Hình sự 2015: Sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội” để mô tả đối tượng trong các vụ việc hình sự liên quan đến người trẻ.
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Định nghĩa “người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi” nhằm xác định đối tượng và nạn nhân trong quá trình tố tụng hình sự.
Những cách gọi và định nghĩa trong các văn bản pháp luật này, mặc dù có sự khác biệt, nhưng đều hướng tới việc bảo vệ và đặt ra quy định cho đối tượng “người chưa thành niên”. Điều này cho thấy khái niệm này được hiểu rộng và áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật, từ dân sự, hình sự, tố tụng hình sự cho đến lĩnh vực lao động và hành chính.
Tóm lại, dựa trên những phân tích và định nghĩa từ các văn bản pháp luật Việt Nam, “người chưa thành niên” có thể được hiểu như sau:
– Độ tuổi: Người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi, theo đúng quy định của các văn bản luật như Bộ luật Dân sự 2015.
– Quyền và Nghĩa vụ: Họ có thể tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật, bao gồm cả dân sự, hình sự, hành chính, lao động và có thể đảm nhận các vai trò chủ thể khác nhau trong các vụ việc và quy trình pháp lý.
Tóm lại, người chưa thành niên không chỉ là một đối tượng được bảo vệ trong pháp luật, mà cũng là một bộ phận có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về thế nào là người chưa thành niên. Gọi ngay: 1900.6174
Một số quy định pháp luật về người chưa thành niên
Quy định về người chưa thành niên trong pháp luật dân sự
Năng lực chủ thể của cá nhân – người chưa thành niên
a) Năng lực pháp luật dân sự
Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm hai yếu tố chính: năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
– Năng lực pháp luật dân sự:
Theo Điều 16 của Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của họ trong việc có quyền và nghĩa vụ dân sự. Tất cả mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự, bắt đầu từ khi sinh ra và chỉ kết thúc khi họ qua đời.
Người chưa thành niên cũng có một loạt quyền và nghĩa vụ dân sự, bao gồm quyền nhân thân liên quan đến tài sản và không gắn liền với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế, và các quyền khác liên quan đến tài sản. Năng lực pháp luật dân sự của người này không bị hạn chế, trừ khi có quy định cụ thể từ luật.
– Năng lực hành vi dân sự:
Điều 17 của Bộ luật Dân sự 2015 mô tả năng lực hành dân sự là khả năng của cá nhân thông qua hành động của họ để thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Người chưa thành niên được phân loại theo các nhóm tuổi như sau:
– Dưới 6 tuổi: Mọi giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
– Từ 6 đến dưới 15 tuổi: Cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
– Từ 15 đến dưới 18 tuổi: Có thể tự mình thực hiện các giao dịch dân sự, ngoại trừ các giao dịch liên quan đến bất động sản và động sản.
Người đại diện theo pháp luật có thể bao gồm cha mẹ, người giám hộ, hoặc người được Tòa án chỉ định.
b) Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
Khi người chưa thành niên bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần, nghiện ma túy, hoặc các tình trạng khác làm họ mất khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố họ mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Các giao dịch dân sự của người này phải được người đại diện theo pháp luật thực hiện và đối với tài sản, cần có sự đồng ý của người đại diện.
Khi không còn lý do để tiếp tục áp dụng các quyết định về mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án có thể ra quyết định hủy bỏ các quyết định trước đó.
Quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền dân sự riêng biệt của mỗi cá nhân và không thể được chuyển nhượng cho bất kỳ ai khác, trừ khi có quy định khác từ luật. Người chưa thành niên, dù được bảo vệ, cũng cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật khi thực hiện các quyền liên quan đến quyền nhân thân, như quyền có họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền quyết định dân tộc, quyền về quốc tịch, và các quyền khác liên quan đến sự sống và sức khỏe (từ Điều 26 đến Điều 38 của Bộ luật Dân sự năm 2015).
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Quy định về người chưa thành niên trong pháp luật hành chính
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và sửa đổi, bổ sung 2020: Chương riêng về người chưa thành niên vi phạm hành chính (Điều 133 – Điều 140a)
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2020 với mục tiêu bảo vệ và giáo dục người chưa thành niên trong việc xử lý hành chính. Các quy định dưới đây chi tiết hóa các nguyên tắc và biện pháp cụ thể được áp dụng trong quá trình xử lý vi phạm của nhóm này.
Nguyên tắc xử lý:
– Mục đích giáo dục và sửa chữa: Người chưa thành niên chỉ nên được xử phạt khi thực sự cần thiết, nhằm mục đích giáo dục, giúp họ nhận biết và sửa chữa sai lầm, cũng như phát triển tính cách lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
– Khả năng nhận thức: Quá trình xử lý cần dựa trên khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất và hậu quả nguy hiểm của hành vi vi phạm hành chính đối với xã hội.
– Hình phạt nhẹ hơn: Người chưa thành niên được hưởng lợi ích từ việc áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm hành chính.
Đối với nhóm tuổi cụ thể:
– Từ 14 đến dưới 16 tuổi: Không áp dụng hình thức phạt tiền.
– Từ 16 đến dưới 18 tuổi:
+ Mức tiền phạt không vượt quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên.
+ Bị buộc phải nộp một khoản tiền bằng 1/2 trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào Ngân sách nhà nước, theo quy định tại Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi và bổ sung 2020. Trong trường hợp không có khả năng nộp phạt hoặc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ thực hiện thay.
Biện pháp bảo vệ và thay thế:
+ Tôn trọng quyền riêng tư: Trong quá trình xử lý, các thông tin và bí mật riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ.
+ Biện pháp thay thế: Các biện pháp thay thế cho việc xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên cần được xem xét và áp dụng khi có đủ điều kiện, nhằm giúp họ học hỏi và tránh tái phạm.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Quy định về người chưa thành niên trong pháp luật lao động
Theo Bộ luật Lao động 2019, độ tuổi lao động tối thiểu được quy định là từ đủ 15 tuổi, trừ những trường hợp được phép bởi luật. Dưới đây là chi tiết và các quy định cụ thể áp dụng cho người lao động chưa thành niên:
– Lao động chưa thành niên: Người lao động chưa đủ 18 tuổi.
– Từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi: Không được phép làm công việc hoặc tham gia lao động tại các nơi làm việc được quy định tại Điều 147 của Bộ luật Lao động 2019.
– Từ 13 đến chưa đủ 15 tuổi: Chỉ được phép tham gia lao động ở các công việc nhẹ được liệt kê trong danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành.
– Dưới 13 tuổi: Chỉ được phép làm các công việc đặc biệt theo quy định tại khoản 3 của Điều 145 Bộ luật Lao động 2019, như đã quy định tại Điều 143 của cùng Bộ luật.
Các công việc nhẹ được phép cho người từ 13 đến chưa đủ 15 tuổi:
– Biểu diễn nghệ thuật: Biểu diễn trên sân khấu, trên màn ảnh hoặc các sân chơi nghệ thuật khác.
– Vận động viên thể thao: Tham gia các hoạt động thể thao và đào tạo thể thao.
– Lập trình phần mềm: Tham gia vào các hoạt động lập trình, thiết kế phần mềm dưới sự hướng dẫn và giám sát của người có kinh nghiệm.
Nghề truyền thống và thủ công mỹ nghệ: Bao gồm nhưng không giới hạn ở việc chấm men gốm, dệt thổ cẩm, làm nón lá, vẽ tranh sơn mài, và nhiều nghề thủ công mỹ nghệ khác.
– Đan lát và sản xuất thủ công: Bao gồm việc đan lát, làm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như mây, tre, nứa, dừa, và các loại lá khác.
– Nuôi tằm và các công việc nông nghiệp: Bao gồm việc chăm sóc và nuôi dưỡng tằm, chăn thả gia súc, và các hoạt động liên quan đến nông trại.
– Các công việc khác: Gói nem, kẹo, bánh; thu hoạch rau, củ, quả sạch; phụ gỡ lưới cá và các hoạt động khác liên quan đến ngư nghiệp và thủy sản.
Vui lòng lưu ý rằng những hoạt động này phải được thực hiện trong môi trường an toàn và tuân thủ các quy định về bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của lao động, theo các hướng dẫn tại Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH.
Quy định về người chưa thành niên trong pháp luật hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
– Người từ đủ 16 tuổi trở lên: Chịu trách nhiệm hình sự cho tất cả các loại tội phạm, trừ khi Bộ luật Hình sự có quy định khác.
– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: Chịu trách nhiệm hình sự cho các tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng, như tội giết người, tội hiếp dâm, và tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác, được liệt kê tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
– Mục tiêu: Đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên, nhằm mục đích giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm và phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
– Miễn trách nhiệm hình sự: Có thể miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục khi người chưa thành niên thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 91, và họ có tính tiết giảm nhẹ và tự nguyện khắc phục hậu quả.
– Xét xử: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi nếu việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục tại các trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
– Hình phạt: Không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi các biện pháp giáo dục và hình phạt khác không có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Các biện pháp giám sát, giáo dục, và tư pháp
– Cơ sở pháp lý: Điều 92 – 97 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
– Các biện pháp: Bao gồm khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, và giáo dục tại các trường giáo dưỡng.
Các hình phạt được áp dụng
– Cơ sở pháp lý: Điều 98 – 101 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
– Các hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, và tù có thời hạn.
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
– Người dưới 18 tuổi: Nếu phạm nhiều tội trước và sau khi đủ 16 tuổi, hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
– Người dưới 18 tuổi và trên 18 tuổi: Nếu phạm nhiều tội trước và sau khi đủ 18 tuổi, hình phạt chung áp dụng như đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Người chưa thành niên bao gồm những ai?
Người chưa thành niên: Theo Điều 21 của Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa thành niên là những người chưa đủ mười tám tuổi.
Trong giao dịch dân sự:
– Dưới 6 tuổi: Người chưa thành niên dưới 6 tuổi sẽ thực hiện các giao dịch dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật của mình.
– Từ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: Trong trường hợp này, người chưa thành niên phải có sự đồng ý từ người đại diện pháp luật của mình khi xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, các giao dịch dân sự phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với độ tuổi có thể được thực hiện mà không cần sự đồng ý của người đại diện.
– Từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: Người chưa thành niên trong độ tuổi này có quyền tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, các giao dịch liên quan đến bất động sản và động sản phải được đăng ký và tuân theo các quy định pháp luật, cần sự đồng ý từ người đại diện pháp luật của họ.
Nơi cư trú:
– Theo Điều 41 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nơi cư trú của người chưa thành niên được xác định dựa trên nơi cư trú của cha và mẹ.
– Nơi cư trú của cha và mẹ: Nếu cha và mẹ của người chưa thành niên cư trú tại nhiều địa điểm khác nhau, nơi cư trú của người chưa thành niên sẽ là nơi mà họ thường xuyên chung sống với cha hoặc mẹ.
– Ngoại lệ: Người chưa thành niên cũng có thể có nơi cư trú riêng biệt khác với cha, mẹ nếu có sự đồng ý từ cha hoặc mẹ, hoặc nếu có các quy định pháp luật cụ thể cho phép điều này.
Người chưa thành niên theo điều 21 Bộ luật dân sự 2015
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã dựa trên độ tuổi để định nghĩa người chưa thành niên. Độ tuổi là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển tâm sinh lý của con người, và mỗi độ tuổi sẽ có những khả năng, kỹ năng và kiến thức khác nhau. Do đó, việc định nghĩa người chưa thành niên dựa trên độ tuổi là hợp lý và cần thiết để đảm bảo quyền lợi và bảo vệ cho những người đang trong quá trình phát triển.
Có thể có những trường hợp người chưa thành niên có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng vẫn được coi là người chưa thành niên do chưa đủ độ tuổi theo quy định. Tuy nhiên, pháp luật cũng có cơ chế và quy định để xử lý các trường hợp đặc biệt này, bao gồm việc xem xét độ tuổi tâm lý của người đó, năng lực hành vi dân sự và các tình huống cụ thể liên quan đến quyền lợi và bảo vệ của người chưa thành niên.
Theo quy định của khoản 2 Điều 21 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Mọi quan hệ dân sự của người đó đều phải được xác lập và thực hiện qua người đại diện theo pháp luật của người đó.
Tuy nhiên, đối với các trường hợp người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, thì có thể bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, người đó sẽ không còn được coi là có năng lực hành vi dân sự và mọi quan hệ dân sự của người đó đều phải được xác lập và thực hiện qua người đại diện theo pháp luật. Quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của người đó được Tòa án ra trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định pháp y tâm thần.
Như vậy, những người không có khả năng hành vi đúng đắn do thể chất chưa phát triển đầy đủ hoặc do bệnh lý, không có đủ khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, đều được coi là không có năng lực hành vi dân sự. Do đó, mọi giao dịch dân sự của những người này đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
Tuy nhiên, nếu một người bị mất năng lực hành vi dân sự mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, thì đó không phải là trường hợp người có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó khi họ tham gia quan hệ dân sự, pháp luật dân sự cũng quy định chế độ giám hộ. Chế độ giám hộ sẽ giúp đỡ và bảo vệ cho người bị mất năng lực hành vi dân sự, đồng thời đại diện cho họ trong các giao dịch dân sự và các hoạt động pháp lý khác. Người được bổ nhiệm làm người giám hộ phải có đủ năng lực, trách nhiệm và được cơ quan tư pháp ủy quyền.
Theo quy định của khoản 3 Điều 21 trong Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép những người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi, có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Điều này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh, thanh thiếu niên trong việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và học tập.
Cụ thể, những người này được phép xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, ví dụ như mua sắm sách vở, quà bánh, đồ chơi, đồ dùng trong học tập… Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, họ có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Tuy nhiên, khi phải chịu trách nhiệm về tài sản mà tài sản riêng của người đó không đủ thanh toán, chi trả thì cha mẹ phải bổ sung cho đủ. Đối với người giám hộ không phải là cha mẹ thì họ có những nghĩa vụ theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo khoản 4 Điều 21 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự mà không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và các giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Tuy nhiên, đối với người giám hộ không phải là cha mẹ thì họ có những nghĩa vụ quản lý tài sản và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, người giám hộ sẽ là người đại diện cho người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự như đã nêu ở trên.
Khi chấm dứt việc giám hộ, hậu quả chấm dứt việc giám hộ sẽ được quy định cụ thể tại Điều 63 Bộ luật Dân sự năm 2015, tùy từng trường hợp cụ thể.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Ý nghĩa của chế định người chưa thành niên
Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, việc xác định liệu một người đã đủ tuổi trở thành người thành niên hay chưa là vô cùng quan trọng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch mà còn đặt ra nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
Nếu một giao dịch được thực hiện với một người chưa thành niên mà không có sự đại diện hoặc sự cho phép của người đại diện pháp lý, giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu. Điều này có thể dẫn đến những tranh chấp về quyền sở hữu, trách nhiệm tài chính, và các vấn đề pháp lý khác mà các bên tham gia giao dịch phải đối mặt.
Ngoài việc ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch, việc xác định ai là người chưa thành niên cũng có thể ảnh hưởng đến các quyết định về trách nhiệm hành chính và hình phạt. Các hành động vi phạm pháp luật có thể nhận được mức độ xử lý khác nhau dựa trên độ tuổi và khả năng pháp lý của chủ thể.
Việc xác định chủ thể trong giao dịch là người thành niên hay chưa thành niên cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Điều này có thể liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, quyết định về sở hữu, và các vấn đề pháp lý khác mà cần sự rõ ràng và chính xác về độ tuổi của người tham gia.
Trong quy trình pháp lý, việc xác định liệu chủ thể bị xử lý là người đã hoặc chưa thành niên là một yếu tố quyết định. Nó không chỉ ảnh hưởng đến việc đánh giá trách nhiệm và mức độ xử lý mà còn đặt ra các tiêu chuẩn và quy định cụ thể trong quá trình giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên
1. Người chưa đủ 6 tuổi
Theo quy định của BLDS 2015, người chưa đủ sáu tuổi không có khả năng thực hiện giao dịch dân sự một cách độc lập. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến người này sẽ được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật, tức là cha mẹ hoặc người giám hộ chính thức của trẻ.
2. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi
Trong độ tuổi từ sáu đến mười lăm tuổi, người tham gia giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện pháp luật. Tuy nhiên, một ngoại lệ được cho phép là những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với lứa tuổi của họ, như mua sắm sách vở, đồ chơi, và các nhu yếu phẩm khác.
3. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
Người từ mười lăm đến mười tám tuổi có mức độ độc lập cao hơn trong việc thực hiện giao dịch dân sự. Họ có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự mà không cần sự đồng ý của người đại diện pháp luật. Tuy nhiên, có một số giao dịch nhất định liên quan đến bất động sản và động sản cần phải được người đại diện pháp luật chấp thuận, cũng như tuân thủ các quy định và hướng dẫn cụ thể từ pháp luật.
Nhìn chung, BLDS 2015 đã xác định rất rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên dựa trên độ tuổi, đồng thời đề xuất các biện pháp bảo vệ để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của họ được thực hiện một cách công bằng và chính xác.
>>>Xem thêm: Điều 133 bộ luật dân sự 2015 – Quy định về người thứ ba ngay tình
Phân biệt giữa người thành niên và người chưa thành niên
Khi nói về khái niệm “người chưa thành niên,” chúng ta thường nghĩ ngay đến người chưa đạt đến độ tuổi trưởng thành. Tuổi trưởng thành là một độ tuổi quy định cụ thể bởi pháp luật, đại diện cho việc người đó đã trưởng thành, có đủ khả năng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân đầy đủ. Trong khi đó, người chưa đạt đến tuổi trưởng thành là những người mà theo pháp luật, họ vẫn chưa đủ tuổi để có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
Quyền và nghĩa vụ công dân đóng vai trò quan trọng trong việc phân loại giữa người đã trưởng thành và người chưa. Nó không chỉ là nền tảng pháp lý mà còn là tiêu chí xã hội giúp chúng ta xác định và áp dụng các quyền và nghĩa vụ đối với từng cá nhân.
Theo quy định hiện hành của pháp luật, người được coi là đã trưởng thành là người đủ 18 tuổi trở lên, trong khi người chưa đạt tuổi trưởng thành là người dưới 18 tuổi. Đáng chú ý, trong một số tài liệu, báo cáo, và thậm chí trong giao tiếp hàng ngày, ta có thể nghe đến khái niệm “vị thành niên.” Điều này thường được hiểu đồng nghĩa với “người chưa thành niên,” bởi “vị” thường mang nghĩa là thiếu, không đủ, hoặc chưa đạt đến một trạng thái cụ thể.
Mỗi độ tuổi khác nhau giữa người trưởng thành và người chưa đạt tuổi trưởng thành đều có sự khác biệt trong việc nhận thức và hiểu biết. Điều này dẫn đến khả năng và cách họ thực hiện hành vi cũng khác nhau. Ví dụ, một người có sức khỏe tốt, trí tuệ phát triển bình thường, không mắc các bệnh tâm thần hoặc các rối loạn khác, nhưng vẫn chưa đủ 18 tuổi, sẽ được xem là người chưa đạt tuổi trưởng thành.
Theo Bộ Luật Dân Sự năm 2015, quy định về giao dịch dân sự cho từng nhóm độ tuổi như sau:
– Người Chưa Đủ Sáu Tuổi: Mọi giao dịch dân sự của họ được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật của trẻ.
– Người Từ Đủ Sáu Tuổi Đến Chưa Đủ Mười Lăm Tuổi: Giao dịch dân sự chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý từ người đại diện pháp luật, trừ các giao dịch hàng ngày và phù hợp với độ tuổi.
– Người Từ Đủ Mười Lăm Tuổi Đến Chưa Đủ Mười Tám Tuổi: Có thể tự mình thực hiện nhiều giao dịch dân sự, trừ một số trường hợp như giao dịch liên quan đến bất động sản và động sản.
Để phân biệt giữa người đã trưởng thành và người chưa, chúng ta không chỉ dựa vào độ tuổi mà còn dựa vào quyền và nghĩa vụ công dân, khả năng nhận thức và hiểu biết của mỗi cá nhân. Pháp luật đặt ra các quy định cụ thể cho từng nhóm độ tuổi để bảo vệ và định hình quyền lợi và nghĩa vụ của họ một cách rõ ràng và công bằng.
>>>Xem thêm: Điều 621 bộ luật dân sự 2015 quy định như thế nào?
Quy định về người chưa thành niên phạm tội
Khi nói đến hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, pháp luật có những quy định cụ thể để đảm bảo tính công bằng và nhân đạo. Dưới đây là các hình phạt và điều chỉnh chi tiết cho từng loại tội phạm và độ tuổi của người phạm tội:
1. Phạt Tiền
– Áp Dụng: Hình phạt phạt tiền chủ yếu áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhưng chỉ khi họ có thu nhập hoặc tài sản riêng.
– Mức Phạt: Số tiền phạt không vượt quá một phần hai mức tiền phạt mà luật pháp định rõ.
2. Cải Tạo Không Giam Giữ
– Đối Tượng: Áp dụng cho những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội một cách vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, hoặc cho những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.
– Thu Nhập: Khi áp dụng, không khấu trừ bất kỳ thu nhập nào của người chưa thành niên.
– Thời Hạn: Thời gian cải tạo không giam giữ không vượt quá một phần hai thời hạn mà luật pháp quy định.
3. Tù Có Thời Hạn
– Đối Tượng: Áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội.
– Mức Hình Phạt:
+ Nếu áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, mức tối đa không vượt quá 18 năm tù.
+ Nếu áp dụng tù có thời hạn, mức tối đa không vượt quá ba phần tư hoặc một phần hai mức phạt tù mà luật pháp quy định, tùy thuộc vào độ tuổi và tính chất của tội phạm.
4. Tổng Hợp Hình Phạt
– Đối Tượng: Áp dụng cho người chưa thành niên phạm nhiều tội, bao gồm tội phạm trước và sau khi đủ 16 tuổi.
– Quy Tắc Tổng Hợp:
+ Nếu tội phạm thực hiện trước đủ 16 tuổi có mức hình phạt cao hơn hoặc bằng tội phạm thực hiện sau đủ 16 tuổi, hình phạt tổng hợp không vượt quá 12 năm tù.
+ Nếu tội phạm thực hiện sau đủ 16 tuổi có mức hình phạt cao hơn tội phạm trước đủ 16 tuổi, hình phạt tổng hợp không vượt quá 18 năm tù.
Tóm lại, các quy định trên giúp xác định hình phạt phù hợp dựa trên độ tuổi và tính chất của tội phạm, đồng thời đảm bảo quyền lợi và sự nhân đạo cho người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Người chưa thành niên phạm tội chịu trách nhiệm thế nào?
Luật Sư Tư Vấn:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm mà họ gây ra. Vì vậy, cháu trai 17 tuổi trong trường hợp này cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm do mình gây ra.
Căn cứ vào Điều 260 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, định rõ về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Cháu trai 17 tuổi lấy xe máy đi chơi và gây tai nạn với mức độ thương tích 61% cho nạn nhân. Gia đình đã phải bồi thường 25 triệu đồng và cháu trai không có giấy phép lái xe. Theo Khoản 2 của Điều 260, khung hình phạt cho hành vi này là từ 3 năm đến 10 năm tù. Tuy nhiên, Tòa án chỉ tuyên phạt cháu trai 18 tháng tù, thấp hơn so với quy định tại Điều 260. Do đó, gia đình cần xem xét liệu Tòa án đã quyết định mức hình phạt có phù hợp hay không.
Nếu gia đình không đồng ý với mức án đã được tòa án tuyên, họ có thể nộp đơn kháng cáo tới tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, do đó, gia đình cần phải nộp đơn kháng cáo trong thời hạn này.
Trong quá trình xét xử phúc thẩm, cháu trai cần phải đưa ra các tình tiết giảm nhẹ hình phạt đã tuyên như: có nhân thân tốt, chưa từng phạm tội trước đó, tuân thủ nghiêm túc pháp luật và đường lối của Đảng, v.v. Khi đó, tòa án sẽ xem xét để giảm nhẹ mức hình phạt đã tuyên cho cháu trai.
>>>Luật sư giải đáp miễn phí về quy định tại điều 21 bộ luật dân sự 2015. Gọi ngay: 1900.6174
Trên đây là toàn bộ nội dung giải đáp chi tiết về điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 của Tổng Đài Pháp Luật. Ngoài những nội dung tư vấn trong bài viết nếu bạn có bất kỳ nội dung nào chưa rõ cần được giải đáp đừng ngần ngại nhấc điện thoại lên và gọi điện ngay cho luật sư của chúng tôi qua điện thoại 1900.6174 để được tư vấn miễn phí
Liên hệ chúng tôi
✅ Dịch vụ luật sư | ⭐️ Chuyên nghiệp: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ xử lý nợ xấu, nợ khó đòi | ⭐️ Đúng pháp luật – Uy tín |
✅ Dịch vụ ly hôn | ⭐️ Nhanh – Trọn gói – Giải quyết trong ngày |
✅ Dịch vụ Luật sư riêng | ⭐️ Uy tín: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ Luật sư Hình sự | ⭐️ Nhanh chóng – Hiệu quả |
✅ Dịch vụ Luật sư tranh tụng | ⭐️ Giỏi – Uy tín – Nhận toàn bộ vụ việc |
✅ Dịch vụ Luật sư doanh nghiệp | ⭐️ Tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp |