Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 được quy định như thế nào? Làm giả và sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức là hành vi không hề hiếm gặp hiện nay. Người thực hiện hành vi này có thể chịu trách nhiệm pháp lý thông qua các biện pháp xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự 2015 . Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ ngay tới hotline: 1900 6174 để được hỗ trợ kịp thời.
>> Tư vấn của Luật sư tư vấn quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự 2015. Gọi ngay 19006174 để được tư vấn miễn phí
Anh Mạnh ở Nam Định đặt câu hỏi như sau:
Khoảng hơn 1 năm trước, em trai tôi được một người quen giới thiệu làm công việc tìm kiếm người muốn mua giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để nhận hoa hồng. Sau khi bán một thời gian, em trai tôi thấy kiếm được khá nhiều tiền nên bắt đầu tham gia trực vào việc làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi giao cho người khác để bán. Hiện giờ, gia đình tôi biết chuyện và đang rất lo lắng cho em trai tôi.
Vậy, Luật sư cho tôi hỏi, liệu em trai tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì hình phạt như thế nào? Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư.
Trả lời: Chào anh, cảm ơn anh đã tin tưởng và đặt câu hỏi cho chúng tôi. Đối với câu hỏi của anh, chúng tôi tư vấn như sau:
Điều 341 bộ luật hình sự 2015 quy định gì?
Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về 02 hành vi phạm tội là: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
Tại điều luật này pháp luật quy định các yếu tố cấu thành tội phạm và các hình phạt đối với người phạm tội. Hay nói cách khác, nội dung của Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về những dấu hiệu của tội phạm, mức độ hành vi và hậu quả gây ra để truy cứu trách nhiệm hình sự và khung hình phạt mà người phạm tội có thể phải chịu.
Có 04 yếu tố cấu thành tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Cụ thể như sau:
(1) Khách thể của tội phạm
Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là tội phạm xâm phạm đến hoạt động quản lý trong lĩnh vực hành chính của cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội về con dấu, tài liệu hoặc những loại giấy tờ khác có liên quan. Con dấu và các tài liệu, giấy tờ trên là những vật vô cùng quan trọng đối với các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội trong lĩnh vực quản lý hành chính.
Vì vậy, việc bảo vệ con dấu, các tài liệu và giấy tờ là cần thiết để bảo đảm hiệu quả công tác quản lý hành chính của hệ thống các cơ quan Nhà nước và các các tổ chức xã hội trên.
Đối tượng bị tác động của tội phạm này là con dấu giả, tài liệu giả và giấy tờ giả của các cơ quan, tổ chức.
Hiện nay, lợi dụng sự phát triển của công nghệ cao, các đối tượng phạm tội làm giả con dấu, giấy tờ và các tài liệu khác vô cùng tinh vi, gần như thật mà mắt thường khó có thể phát hiện mà phải thực hiện giám định mới có thể biết được thật hay giả. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những trường hợp chỉ dùng mắt thường hoặc một vài thủ thuật cơ bản cũng có thể nhận biết được con dấu, giấy tờ hoặc tài liệu giả.
>> Tư vấn của Luật sư tư vấn tội làm giả con dấu. Gọi ngay 19006174 để được tư vấn miễn phí
(2) Mặt khách quan của tội phạm
Tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về 02 tội phạm, bao gồm
– Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức: Hành vi này gần giống với hành vi làm giả hàng hóa, làm giả tiền nhưng đối tượng ở đây không phải là hàng hóa hay tiền mà là con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nào đó.
Tuy nhiên, để xác định có phải là hành vi làm giả con dấu, tài liệu hay không thì phải dựa vào con dấu hay tài liệu của cơ quan, tổ chức bị làm giả có thật hay không.
Nếu trên thực tế, những con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức vốn không hề tồn tại thì không được coi là hành vi làm giả mà chỉ coi đó là hành vi làm con dấu, tài liệu mà thôi.
– Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức: việc này được thể hiện qua hành vi dùng con dấu hoặc tài liệu làm giả của cơ quan, tổ chức để thực hiện một số mục đích như: làm giả giấy phép lao động để ký kết hợp đồng lao động, làm giả bằng tốt nghiệp để xin việc, làm giả giấy khám bệnh để tham gia một số hoạt động hay thủ tục tại các cơ quan, tổ chức, …
Tuy nhiên, nếu dùng những giấy tờ giả này với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác thì được coi là phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Bộ luật Hình sự quy định. Ví dụ: làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để lừa người khác mua đất, đặt cọc đất để chiếm đoạt số tiền mua đất, đặt cọc đất.
Hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm này. Tức là chỉ cần người nào đó có hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc có hành vi sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan tổ chức đã có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự mà chưa cần hậu quả phải xảy ra. Tuy nhiên, hậu quả được coi là tình tiết định khung hình phạt.
(3) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này chỉ cần thỏa mãn điều kiện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi một cách bình thường) và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tức là, người thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc có hành vi sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan tổ chức mà thỏa mãn điều kiện trên cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này mà không phụ thuộc họ là người nước ngoài, người Việt Nam hay là người không quốc tịch.
(4) Mặt chủ quan của tội phạm
Người thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là do cố ý, có thể là do lỗi cố ý trực tiếp hoặc do lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý có nghĩa là người phạm tội hoàn toàn biết rằng hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là hành vi phạm tội nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra (cố ý trực tiếp); hoặc có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra hay không cần biết hậu quả của hành vi đó như thế nào (cố ý gián tiếp).
Động cơ thực hiện hành vi phạm tội của người phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm. Nhưng, động cơ phạm tội có thể là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự khi đưa vụ án ra xét xử.
>> Tư vấn của Luật sư tư vấn hậu quả của việc vi phạm tại điều 341 của bộ Luật Hình sự 2015. Gọi ngay 19006174
Điều 341 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 có gì mới?
Bộ luật Hình sự trước đây của nước ta chỉ dừng lại việc quy định 01 tội là tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, trong đó hành vi khách quan để cấu thành tội phạm này này bao gồm cả hành vi làm giả và hành vi sử dụng nên người có hành vi làm giả và người có hành vi sử dụng đều chỉ phạm vào một tội là tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.
Đến Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhà làm luật đã tách thành hai tội độc lập là tội làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan, tổ chức và tội sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan. Theo đó, người có hành vi làm giả thì bị truy cứu tách nhiệm hình sự về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Còn người có hành vi sử dụng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan tổ chức như đã phân tích ở phần trên.
Việc tách hành vi làm giả và hành vi sử dụng thành 2 tội danh độc lập và quy định trong cùng 1 điều luật như Điều 341 Bộ luật dân sự hiện nay đã cho thấy sự phân biệt rõ ràng về hành vi phạm tội giữa người làm giả và người sử dụng, không thể xảy ra trường hợp người chỉ sử dụng, không liên quan gì đến hành vi làm giả lại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh giống như người làm giả được.
Điều này cho thấy rằng Nhà nước đã định hướng cho việc định tội danh theo nguyên tắc dựa trên hành vi phạm tội đóng vai trò chủ yếu, quan trọng và có tính chất quyết định cho toàn bộ diễn biến của hành vi phạm tội.
>>Xem thêm: Vi phạm hình sự là gì? Các yếu tố cấu thành tội phạm vi phạm hình sự [2022]
Hình phạt đối với người phạm tội tại Điều 341 Bộ luật Hình sự như thế nào?
Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định 03 khung hình phạt mà người phạm tội làm giả giấy tờ, con dấu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu giả, giấy tờ giả của cơ quan có thể phải chịu tùy theo mức độ nguy hiểm, tính chất của hành vi và hậu quả gây ra trên thực tế. Cụ thể như sau:
(1) Phạt tiền 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm đối với người có hành vi sau:
– Làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức;
– Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật;
(2) Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm đối với người phạm tội trong trường hợp sau:
– Có tổ chức;
– Phạm tội từ 02 lần trở lên;
– Làm từ 02 đến 05 đơn vị con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác;
– Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng khác;
– Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thông qua việc thực hiện hành vi phạm tội;
– Tái phạm nguy hiểm.
(3) Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với người phạm tội trong trường hợp sau:
– Làm giả từ 06 đơn vị con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên;
– Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác;
– Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên thông qua việc thực hiện hành vi phạm tội;
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thuộc nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Đối với tội phạm này, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự bằng hình phạt tiền hoặc phạt tù có thời hạn cao nhất là 07 năm tù.
Tuy nhiên, để có kết luận chính xác về hành vi phạm tội và hình phạt phải chịu thì phải có kết luận điều tra của các cơ quan chức năng và bản án của Tòa án. Bởi lẽ, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực của Tòa án phán quyết hành vi mà họ thực hiện là hành vi phạm tội.
>> Xem thêm: Bộ luật hình sự 2015
Trên đây là một số nội dung tư vấn của Tổng đài pháp luật về vấn đề “Điều 341 Bộ luật hình sự – tội làm giả và sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Bạn tham khảo nội dung bài viết để giải đáp thắc mắc của mình. Trong quá trình tìm hiểu bài viết trên hoặc các vấn đề pháp lý liên quan, nếu có bất kỳ câu hỏi nào, hãy nhấc máy và gọi đến đường dây nóng 1900 6174 để được Luật sư và Chuyên viên của Tổng đài Pháp luật tư vấn hỗ trợ kịp thời.
Liên hệ chúng tôi
✅ Dịch vụ luật sư | ⭐️ Chuyên nghiệp: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ xử lý nợ xấu, nợ khó đòi | ⭐️ Đúng pháp luật – Uy tín |
✅ Dịch vụ ly hôn | ⭐️ Nhanh – Trọn gói – Giải quyết trong ngày |
✅ Dịch vụ Luật sư riêng | ⭐️ Uy tín: Dành cho cá nhân – gia đình – doanh nghiệp |
✅ Dịch vụ Luật sư Hình sự | ⭐️ Nhanh chóng – Hiệu quả |
✅ Dịch vụ Luật sư tranh tụng | ⭐️ Giỏi – Uy tín – Nhận toàn bộ vụ việc |
✅ Dịch vụ Luật sư doanh nghiệp | ⭐️ Tư vấn thường xuyên cho doanh nghiệp |