Tội chiếm giữ trái phép tài sản là một loại tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác. Người thực hiện hành vi đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý tài sản và quyền sở hữu tài sản của người khác. Nếu bạn có bất kỳ những thắc mắc nào về tội chiếm giữ trái phép tài sản, hãy liên hệ trực tiếp với Tổng Đài Pháp Luật qua hotline 1900.6174 để được hỗ trợ giải quyết.
>> Tội chiếm giữ trái phép tài sản bị xử phạt như thế nào? Gọi ngay 1900.6174
Tội chiếm giữ trái phép tài sản là gì?
Tội chiếm giữ trái phép tài sản là tội cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản do bị giao nhầm, do tìm được, bắt được sau khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản đó. Trên thực tế, có nhiều người nhận được tài sản do người khác nhưng không có ý định trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu dẫn tới việc họ phải trình báo với cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu lấy lại tài sản.
Những người có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chiếm giữ tài sản trái phép được dựa trên giá trị tài sản chiếm giữ.
Tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác yêu cầu phải có hành vi chiếm giữ và đối tượng của tội phạm phải là tài sản của người khác. Tài sản này có thể là tiền, có thể là hiện vật mà người phạm tội bằng 1 cách nào đó có được mà không vi phạm pháp luật. Nhưng khi có được tài sản đó biết không phải của mình nhưng vẫn muốn sở hữu và không có hành vi trả lại cho chủ nhân của tài sản.
Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác thì căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi, tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt cùng với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của người phạm tội để toà án, cơ quan điều tra có thể đưa ra mức phạt phù hợp với quy định của pháp luật cũng như quy định này phải phù hợp với tội phạm mà người phạm tội đã mắc phải.
Đối với hình phạt của tội này thì được quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản thì người phạm tội có thể bị phạt tiền hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù lên tới 05 năm.
Thực chất đối chiếu theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì người thực hiện hành vi phải từ 16 tuổi trở lên thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra căn cứ theo điểm a, điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có thể thấy tội phạm này chỉ là tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
Đối với những loại tội phạm này thì tòa án có thể xem xét có để điều kiện hưởng án treo và không áp dụng hình phạt tù theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Phân tích tội chiếm giữ trái phép tài sản
Chị Tiến (Thái Bình) có câu hỏi sau:
“Thưa luật sư, tôi có một vài thắc mắc sau đây cần được luật sư tư vấn giải quyết giúp tôi.
Tôi hiện đang sinh sống và làm công nhân may tại Thái Bình. Ngày 16/7/2022, tôi có nhặt được 1 chiếc điện thoại Iphone 12 và đã cầm về nhà. Do chiếc điện thoại còn rất mới nên tôi đã sử dụng luôn và nghĩ cũng không biết ai để trả.
Ngày 20/7/2022, tôi có nghe thông báo trên loa của thôn là có 1 người ở làng bên bị mất chiếc điện thoại Iphone 12 và qua sự mô tả thì đúng với chiếc điện thoại mà tôi nhặt được. Lúc này lòng tham của tôi nổi lên và có ý định chiếm giữ chiếc điện thoại ấy và không có ý định trả lại cho người chủ.
Như vậy, luật sư có thể cho tôi hỏi các cấu thành của tội chiếm giữ trái phép tài sản là như thế nào? Hành vi của tôi có phải là tội chiếm giữ tài sản trái phép không? Xin cảm ơn!”
>> Các yếu tố cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản, liên hệ ngay 1900.6174
Phần trả lời của luật sư!
Thưa chị Tiến! Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi cho Tổng đài tư vấn pháp luật. Theo quy định của pháp luật, vấn đề của chị chúng tôi xin giải quyết như sau:
Để một người thực hiện hành vi mà thỏa mãn để cấu thành tội chiếm giữ tài sản trái phép thì người phạm tội cần đáp ứng đủ các quy định sau đây:
Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác là đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Người thực hiện hành vi này đã bằng cách nào đó có được quyền sở hữu tài sản cho mình nhưng không bằng những hợp đồng hay giao dịch dân sự. Hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Người phạm tội biết là xâm phạm đến tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện đến cùng,
Hành vi của chị Tiến là đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác đó là chiếc điện thoại. Nói 1 cách chính xác ở đây là với hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ nhân của chiếc điện thoại. Hành vi này là hành vi vi phạm pháp luật và trái đạo đức xã hội nhưng chị Tiến vẫn cố tình thực hiện hành vi của xã hội nhưng mà chị Tiến vẫn thực hiện việc xâm phạm đó.
Mặt khách quan của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Hành vi:
Người phạm tội đã bằng 1 cách nào đó để có được tài sản của người khác mà không phải thực hiện các giao dịch dân sự để có được quyền sở hữu như mua bán, tặng cho. Có thể bằng hành vi mượn, nhặt được thì vẫn cấu thành tội này vì mượn thì chưa chuyển giao chủ sở hữu.
Khi người phạm tội có được tài sản thuộc sở hữu của người khác có thể là do mượn, nhặt được, thấy được nhưng không phải tài sản của người khác bỏ đi mà vẫn đang thuộc quyền sở hữu của người khác. Khi người phạm tội có được tài sản đó và có ý chiếm đoạt hay chiếm giữ mà không muốn trả lại cho người chủ nhân của tài sản thì mới có thể cấu thành tội phạm này.
Đối tượng tác động:
Đối tượng tác động ở đây là quyền sở hữu tài sản của người khác. Quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản.
Hậu quả:
Chủ sở hữu thực tế của tài sản bị chiếm đoạt đó bị mất đi quyền sở hữu của mình. Người chủ sở hữu thực tế bị mất đi quyền sở hữu hợp pháp của mình và người có được tài sản lại có quyền sở hữu 1 cách gián tiếp trái phép luật. Hành vi nhặt được tài sản nhưng không trả lại hay không thông báo với cơ quan có thẩm quyền.
Mối quan hệ nhân quả:
Với hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác gây ra hậu quả chủ sở hữu đó mất đi quyền sở hữu của mình. Hành vi người phạm tội thực hiện là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả đó.
Về mặt khách quan của chị Tiến:
Hành vi:
Hành vi của chị Tiến là đã nhặt được chiếc điện thoại của người khác và đã có hành vi muốn chiếm giữ lại và không có ý định khai báo cho người có thẩm quyền hay không có ý định trả lại tài sản cho người chủ sở hữu của chiếc điện thoại đó.
Đối tượng tác động:
Ở đây chị có thể xác định được đối tượng tác động là quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản này.
Hậu quả:
Làm cho người chủ sở hữu tài sản bị mất đi quyền sở hữu chiếc điện thoại của mình. Và chị Tiến trở thành người có được tài sản và chủ sở hữu chiếc điện thoại đó một cách không đúng, không phù hợp với quy định của pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả:
Với hành vi không trả lại chiếc điện thoại mà chị Tiến đã nhặt được cho người chủ sở hữu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc người chủ sở hữu đó bị tước quyền sở hữu chiếc điện thoại mà đáng ra nếu như chị Tiến nhặt được phải trả lại cho người ta. Thay vì trả lại chị Tiến đã biến tài sản đó thành tài sản của mình và chiếm giữ chiếc điện thoại đó không có ý định trả lại.
Chủ thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Về chủ thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản:
Đây có thể nói là tội phạm nghiêm trọng và theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Người phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự và năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Người thực hiện hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác phải là người hoàn toàn tỉnh táo, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả và mình gây ra. Khi thực hiện hành vi không bị cưỡng chế, bị dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực.
Về chủ thể đối với chị Tiến:
Chị Tiến khi thực hiện hành vi cũng đã trên 16 tuổi. Khi thực hiện hành vi thì hoàn toàn tỉnh táo, nhận thức được hành vi của mình và hậu quả và mình gây ra. Khi thực hiện hành vi không bị cưỡng chế, bị dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực. Chị Tiến hoàn toàn có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và năng lực hành vi dân sự.
Mặt chủ quan của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Người phạm tội phải thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rằng tài sản đó thuộc sở hữu của người khác và mình không có quyền sở hữu nó nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. Khi thực hiện hành vi thì người phạm tội cố ý tách biệt quyền sở hữu tài sản và người chủ thực sự của tài sản đó riêng biệt với nhau.
Mục đích của tội phạm này đó là nhằm tước đi quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu tài sản bị chiếm đoạt. Thay vào đó người phạm tội muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình, do mình sở hữu, sử dụng và định đoạt cho dù trái quy định của pháp luật.
Tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác sẽ bị chịu trách nhiệm hình sự nếu tài sản bị chiếm giữ có giá trị thực tế cao hơn mức định khung trong bộ luật hình sự. Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của hành vi để cơ quan điều tra, cơ quan Viện kiểm sát và tòa án đưa ra mức phạt phù hợp với người phạm tội.
Về phía của chị Tiến thì là do chị Tiến đã nhặt được chiếc điện thoại và không có ý định trả lại cho chủ và bằng những phân tích chúng tôi nếu ra thì chị Tiến đã đủ các yếu tố cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác.
Với hành vi của chị Tiến nếu khi xác định giá trị của chiếc điện thoại mà lớn đủ để cấu thành tội phạm hình sự thì chị Tiến sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự. Tùy thuộc vào quy định của pháp luật, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của hành vi để đưa ra mức phạt phù hợp với lỗi mà chị Tiến đã phạm phải.
Trên đây là những phân tích để trả lời câu hỏi của chị Tiến. Nếu như trong quá trình tham khảo câu trả lời của chúng tôi, chị Tiến có bất kỳ thắc mắc gì hãy trực tiếp liên hệ qua hotline 1900.6174 để được đội ngũ luật sư hỗ trợ về vấn đề này.
Mức xử phạt của tội chiếm giữ trái phép tài sản
Anh Trường (Bắc Ninh) có câu hỏi như sau:
“Tôi là Trường năm nay 34 tuổi hiện đang sinh sống và làm việc cho 1 khách sạn tại Hà Nội. Ngày 17/8/2022, tôi có dọn dẹp lại khách sạn để đón tiếp 1 số đối tác quan trọng của khách sạn. Lúc dọn dẹp và trang trí lại phòng tôi đã để điện thoại ra bàn uống nước của phòng. Sau khi dọn xong do vội đi ăn trưa nên tôi đã không nhớ đến chiếc điện thoại để trên bàn đó.
Sau khi tôi làm việc xong, về đến nhà tôi mới phát hiện là không thấy điện thoại của mình đâu. Tôi đã quay trở lại khách sạn và lên phòng mà tôi trang trí thì không thấy điện thoại đâu. Khi tôi xuống dưới sảnh và nhờ check lại camera thì thấy có 1 người phụ nữ cầm trên tay chiếc điện thoại của tôi và đã đi ra ngoài.
Khi tôi liên hệ với cô ấy thì cô ấy đã phủ nhận và nói không thấy chiếc điện thoại của tôi. Do chiếc điện thoại tôi mới mua với giá là 15.100.000 đồng nên tôi đã đi trình báo với công an. Sau đó công an mời cô gái này lên kiểm tra và đã phát hiện ra chiếc điện thoại. Qua kết luận ban đầu thì người phụ nữ này là N đã có hành vi của tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác.
Vậy, luật sư cho tôi hỏi với hành vi này của chị N có phải phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản hay không? Mức phạt của chị N là mấy năm tù? Xin cảm ơn luật sư!”
>> Tội chiếm giữ trái phép tài sản có bị phạt tù không? Liên hệ ngay 1900.6174
Phần trả lời của Luật sư!
Thưa anh Trường! Cảm ơn anh đã quan tâm sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý của chúng tôi. Với đội ngũ luật sư cùng với những quy định của pháp luật chúng tôi xin giải quyết vấn đề thắc mắc về tội chiếm giữ trái phép tài sản của anh như sau:
Thứ nhất, về hành vi của chị N
Đối với hành vi của chị N là đã phát hiện ra chiếc điện thoại để trong phòng của khách sạn nhưng không liên lạc với chủ của điện thoại đó hãy liên hệ với quản lý của khách sạn để xác minh xem điện thoại của ai nhằm mục đích trả lại tài sản của người để quên. Hành vi của chị N đã gây ra hậu quả là anh Trường bị xâm phạm đến quyền sở hữu chiếc tài sản đó.
Mục đích của chị N ở đây rõ ràng là muốn tách rời quyền sở hữu tài sản của anh Trường và tài sản của anh Trường ra nhằm mục đích chiếm hữu, sử dụng chiếc điện thoại mà anh Trường để quên tại khách sạn.
Lỗi ở đây của chị N là lỗi cố ý trực tiếp. Người vi phạm ở đây là chị N đã biết tài sản đó không phải của mình, biết tài sản đó không phải là tài sản bị bỏ đi mà đang có người sở hữu. Nhưng khi có được tài sản đó lại không liên hệ với chủ nhân, không liên hệ với tòa nhà khách sạn để trả lại.
Biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, là pháp luật cấm và không cho phép mà chị N vẫn cố tình thực hiện hành vi đến cùng nhằm lấy được tài sản của anh Trường ở đây là chiếc điện thoại
Chị N là người đã trên 16 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi N hoàn toàn tỉnh táo và làm chủ được hành vi của mình. Chị N thực hiện hành vi không bị ép buộc, không bị dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực, cũng không bị người khác dùng thủ đoạn tới. Chị N hoàn toàn đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình.
Từ những phân tích về hành vi của chị N nêu trên có thể kết luận chị N đã phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản được quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Với tình tiết là chiếc điện thoại này có giá trị hơn 10.000.000 đồng nên hoàn toàn thỏa mãn quy định tại điều này. Mức xử phạt như thế nào có tùy vào quy định của pháp luật và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của hành vi mà chị N gây ra.
Thứ hai, mức phạt đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản
Tội chiếm giữ trái phép tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, muốn biến quyền sở hữu tài sản của người khác sang quyền sở hữu của mình. Hành vi này là hành vi không thể chấp nhận được và đã được các nhà làm luật đưa vào và đã xác định hình phạt cho nó. Để hiểu rõ hơn về tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác thì căn cứ tại Điều 176 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau:
“Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản
1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Như vậy, tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác trái pháp luật thì để có thể xử lý hình sự thì tài sản đó phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Nhưng có 1 số tài sản dưới đây mà có giá trị dưới 10 triệu đồng nhưng người có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác vẫn sẽ bị phạt tù đó là: là di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật.
Mức xử phạt của tội này có thể là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng là hình phạt nhẹ nhất khi người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà tòa án xét thấy không cần áp dụng hình phạt tù đối với người vi phạm, áp dụng hình phạt tù đối với tội này lên đến 05 năm là hình phạt nặng nhất mà người phạm tội phải chịu khi có nhiều tình tiết tăng nặng.
Đối với tội phạm của chị N đó là tội chiếm giữ trái phép tài sản với giá trị 15.100.000 đồng căn cứ vào khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì chị N có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phải cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm. Đối với mức phạt như vậy và tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để tòa án xác định hình phạt chính xác.
Trong trường hợp này thì chị N có thể được áp dụng án treo hoặc cải tạo không giam giữ mà không phải chịu hình phạt tù nếu như có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Với các phần giải thích như trên thì chúng tôi đã trả lời đầy đủ những vấn đề mà anh Trường thắc mắc. Nếu anh còn bất cứ thắc mắc gì về vấn đề về tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác hãy những tội phạm liên quan đến chiếm đoạt tài sản hãy liên hệ đến hotline 1900.6174 để được hỗ trợ và giải đáp.
>> Xem thêm: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo bộ luật hình sự mới nhất
Thủ tục tố giác tội chiếm giữ trái phép tài sản
Chị Thanh (Thanh Hóa) có câu hỏi sau:
Thưa luật sư, tôi có thắc mắc sau đây cần được luật sư tư vấn:
Tôi là Thanh năm nay 40 tuổi hiện đang sinh sống và làm việc ở Hà Nội. Ngày 7/8/2022 tôi có ra ngân hàng ở Hà Nội để rút số tiền 40.000.000 đồng và đã cầm tiền về và có để trong túi xách.
Sau khi vào quán phở để ăn trưa do vội về vì con đang bị ốm nên đã không để ý đến số tiền kia. Khi về đến nhà, tôi phát hiện không thấy số tiền đâu và có đến để xin lại số tiền nhưng chủ quán phở là anh Tiến bảo là không có và không thấy số tiền nào ở đây.
Khi tôi đề nghị check lại camera thì anh Tiến báo là camera bị hỏng rồi và hiện tại chưa sửa được. Khi tôi nhờ nhà bên cạnh quán phở check lại camera ở ngoài đường thì thấy khi tôi đi vào thì cầm túi xách và khi đi ra thì không cầm theo túi xách.
Vậy, luật sư cho tôi hỏi thủ tục tố giác tội chiếm giữ trái phép tài sản là như thế nào? Anh Tiến nếu như có thấy và không trả lại cho tôi thì vi phạm tội gì? Hình thức xử phạt đối với anh Tiến là như thế nào? Tôi xin cảm ơn luật sư!
>> Tư vấn thủ tục tố giác tội chiếm giữ trái phép tài sản nhanh chóng, liên hệ ngay 1900.6174
Phần trả lời câu hỏi của Luật sư!
Thưa chị Thanh! Cảm ơn chị đã quan tâm sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Bằng kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực pháp luật kết hợp với những quy định mới nhất, chúng tôi xin giải quyết như sau:
Thứ nhất, thủ tục tố giác tội chiếm giữ trái phép tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nêu rõ:
“Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”
Như vậy, để có thể đòi lại tài sản bị người khác do bị chiếm giữ trái phép, các cá nhân bị chiếm giữ về tài sản hay các cá nhân phát hiện ra hành vi chiếm giữ tài sản có thể tố giác tội phạm đó với cơ quan có thẩm quyền theo trình tự các bước như sau:
Bước 1: Xác định các cơ quan có trách nhiệm, có thẩm quyền tiếp nhận đơn tố giác tội phạm
Căn cứ tại Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017, Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an…nơi mà nạn nhân đang cư trú sẽ có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Bước 2: Lựa chọn hình thức và tiến hành tố giác, báo tin về tội phạm
Các cá nhân tố giác hay báo tin về tội phạm và các cá nhân muốn kiến nghị khởi tố có thể thực hiện bằng các hình thức sau:
+ Hình thức bằng miệng (trực tiếp đến trình báo hoặc tố giác, báo tin qua điện thoại tới những cơ quan tiếp nhận đơn tố giác);
+ Bằng văn bản (có thể gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện)
Khi tố giác, báo tin về tội phạm, người tố giác, người tin báo cần phải cung cấp đầy đủ các thông tin, các tài liệu và trình bày rõ những hiểu biết của mình liên quan đến tội phạm mà mình tố giác hoặc mình báo tin.
Bước 3: Người tố giác, tin báo phải theo dõi kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Khi hết thời hạn 03 ngày kể từ ngày thực hiện việc nộp đơn tố giác, báo tin về tội phạm hay lên trực tiếp để báo tin, tố giác mà chưa nhận được thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận thì cá nhân có quyền được yêu cầu cơ quan tiếp nhận phải thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đơn tố giác, tin báo về tội phạm.
Khi hết thời gian giải quyết đơn tố giác, tin báo về tội phạm người tố giác, tin báo mà chưa nhận được văn bản thông báo kết quả giải quyết thì cá nhân có quyền đề nghị cơ quan tiếp nhận thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Khi chị Thanh phát hiện có hành vi phạm tội của anh Tiến là tội chiếm giữ trái phép tài sản của chị Thanh thì chị Thanh có thể đến cơ quan công an xã, phường, thị trấn nơi mà chị Thanh đang cư trú để tố giác về tội phạm này.
Sau 3 ngày kể từ ngày chị Thanh thực hiện hành vi tố giác thì chịu Thanh phải để ý đến quyết định tiếp nhận đơn tố giác của cơ quan công an có tiếp nhận đơn của mình hay không. Yêu cầu cơ quan tiếp nhận đơn phải trả lời bằng văn bản cho chị Thanh.
Thứ hai, xác định tội mà anh Tiến phạm
Đối với hành vi của anh Tiến nếu như đã cố ý chiếm giữ số tiền 40.000.000 đồng của chị Thanh và đã ngăn cản không có chị Thanh sở hữu số tiền đấy hoặc bằng cách nào đó không trả lại số tiền 40 triệu đồng cho chị Thanh.
Với anh Tiến năm nay đã trên 16 tuổi và thực hiện hành vi một cách cố ý trực tiếp và mục đích của anh Tiến là để tước đi quyền sở hữu 40 triệu đồng của chị Thanh và thay vào đó anh Tiến sẽ là người sở hữu số tiền đó 1 cách bất hợp pháp.
Qua những phân tích trên có thể thấy nếu như anh Tiến thỏa mãn nhưng phân tích đó thì sẽ phạm tội chiếm giữ chiếm đoạt tài sản. Hình phạt mà anh Tiến phải chịu nếu như có hành vi phạm tội đó sẽ căn cứ vào Điều 176 bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Mức phạt cao hay thấp còn phải căn cứ vào hành vi của anh Tiến mức độ nguy hiểm như thế nào, có nghiêm trọng hay không và có những tình tiết giảm nhẹ được quy định ở Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và những tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 của bộ luật này. Khi đó tòa án sẽ căn cứ vào những tình tiết trên để đưa ra mức xử phạt phù hợp với lỗi của anh Tiến.
Thứ ba, mức xử phạt đối với hành vi của anh Tiến
Đối với trường hợp của anh Tiến thì đã có yếu tố của tội chiếm giữ trái phép tài sản. Đối với tội phạm này thì không có quy định về xử phạt hành chính mà chỉ được quy định bởi pháp luật hình sự và căn cứ tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì tội chiếm giữ trái phép tài sản của người khác giá trị từ 10 triệu đồng đến 200 triệu đồng thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phải cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.
Như vậy, anh Tiến đã chiếm giữ với số tiền là 40.000.000 đồng thì anh Tiến thấp nhất sẽ bị xử phạt tiền từ 10 đến 50 triệu đồng và nặng nhất sẽ là hình phạt tù lên đến 02 năm. Mức phạt cụ thể là bao nhiêu còn phải tùy thuộc vào những kết luận của cơ quan điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát và bản án,quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Qua những giải thích và trình bày như trên thì đã giải quyết được vấn đề mà chị Thanh thắc mắc. Nếu trong quá trình tìm hiểu quy định pháp luật cũng như những quy định về tội chiếm giữ trái phép tài sản còn chỗ nào chưa hiểu, chị hãy liên hệ đến hotline 1900.6174 để được tư vấn luật hình sự nhanh chóng.
>> Xem thêm: Thủ tục tố cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định 2022
Một số câu hỏi liên quan đến tội chiếm giữ trái phép tài sản
Phân biệt tội chiếm giữ trái phép tài sản với công nhiên chiếm đoạt tài sản
Điểm giống nhau của tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm
Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi mà người phạm tội cố ý không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó. Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người khác để lấy đi tài sản một cách công khai mà cho dù nạn nhân biết cũng không thể làm được gì.
Tuy 2 tội phạm này có hai khái niệm khác nhau nhưng hai tội này cùng xâm phạm đến những quyền về tài sản và quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp: Đối với 2 tội phạm này đều là tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Quyền sở hữu tài sản của con người bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu mà khi đó chủ sở hữu sẽ tự mình nắm giữ, quản lý trực tiếp hoặc gián tiếp tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Người chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu do được uỷ quyền, được giao mà không kèm theo việc chuyển quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền chiếm hữu chỉ được thực thi trong phạm vi giới hạn của các hành vi và theo thời gian mà chủ sở hữu cho phép.
Quyền sử dụng là quyền được khai thác công dụng và được khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Việc người nào có quyền sử dụng tài sản là một trong những quyền quan trọng và có ý nghĩa thực tế rất to lớn đối với chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó.
Quyền định đoạt là một trong 3 loại quyền năng của chủ sở hữu để quyết định về “số phận” của tài sản đó, có thể như là để trưng bày, lưu giữ, tiêu dùng hết, huỷ bỏ…, hoặc cũng có thể để là bán, cho, tặng,… tài sản mà chủ sở hữu đang sở hữu.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau:
“Điều 105. Tài sản
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Quyền sở hữu tài sản được pháp luật ghi nhận tại trong Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015.
Như vậy, khách thể chung của hai tội phạm này là đều là quyền sở hữu tài sản của con người và các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu của con người và tài sản của chủ sở hữu hay tài sản do người quản lý trực tiếp hoặc gián tiếp đang nắm giữ.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của 2 loại tội phạm này đều phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. và năng lực hành vi dân sự
Bộ luật Hình sự 2015 không có quy định như thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng lại có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015.
Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi người đó đang mắc bệnh tâm thần, hay một số bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về lỗi mà họ gây ra.
Người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đó người đó phải có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội phạm mà họ vi phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại một trong các sau:
+ Tội cướp tài sản
+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
+ Tội cướp giật tài sản
+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Như vậy, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội chiếm giữ trái phép tài sản không thuộc danh sách các tội mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hai tội phạm này chỉ là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ ai, có thể người Việt Nam, hay là người nước ngoài, hoặc người không quốc tịch. Các loại tội phạm này chủ yếu là do cá nhân thực hiện nhưng cũng có thể phạm tội do có tổ chức, các đồng phạm câu kết cho người bị hại sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản.
Sự khác nhau
Về mặt khách quan
Tội chiếm giữ trái phép tài sản (điều 176 bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
Hành vi phạm tội thuộc mặt khách quan của tội phạm chiếm giữ trái phép tài sản. Đó là hành vi người phạm tội biến tài sản đang tạm thời không có người quản lý hoặc chưa có người quản lý thành tài sản của mình một cách trái phép, trái pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới những hình thức sau đây:
Không chịu trả lại tài sản khi mà được giao nhầm cho chủ sở hữu của tài sản, người quản lý hợp pháp tài sản đó mà lại có hành vi chiếm hữu, sử dụng hoặc đã định đoạt về tài sản đó rồi.
Không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản mà mình đã tìm được, hoặc đã bắt được… mà vẫn tiếp tục chiếm hữu, sử dụng hoặc đã định đoạt về tài sản đó. Cơ quan có trách nhiệm về tài sản ở đây có thể là công an hoặc chính quyền địa phương nơi mà tài sản đó được tìm thấy hoặc được nhặt được.
Hành vi được xem là không trả lại tài sản hoặc không giao nộp lại tài sản khi mà người phạm tội đã quyết định định đoạt về tài sản đó (ví dụ như bán, tiêu dùng, tẩu tán hoặc thực hiện các hành vi khác làm mất khả năng trả lại hoặc giao nộp) hoặc người nhặt được, tìm được tài sản mà có hành vi từ chối việc trả lại, giao nộp lại tài sản.
Hậu quả của tội phạm này là tài sản bị giao nhầm, bị mất, bị rơi không thu hồi được và không trả lại được cho chủ sở hữu hợp pháp. Tuy nhiên, nếu tài sản đó là tài sản bình thường và không phải là di vật, cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì giá trị tài sản đó phải có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên thì mới có thể cấu thành tội phạm này.
Nếu tài sản đó là di vật, cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì nếu như mà giá trị tài sản dưới 10.000.000 đồng thì vẫn bị coi là phạm tội và vẫn bị truy tố trách nhiệm hình sự.
Theo Luật di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa số 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009, di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học; cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Hành vi mà thuộc mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức, một cách công khai, với thủ đoạn lợi dụng sự sơ hở của người chủ sở hữu tài sản đó hoặc sự sơ hở của người quản lý tài sản hoặc người phạm tội đã lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác để chiếm đoạt tài sản như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh… Một số trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản sau:
+ Người phạm tội đã lợi dụng sơ hở, những vướng mắc của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để trực tiếp công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ.
+ Người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan như là: do thiên tai, hoả hoạn, bị tai nạn, đang có chiến sự để có hành vi chiếm đoạt tài sản. Những hoàn cảnh cụ thể này không phải do người có tài sản gây ra mà do hoàn cảnh khách quan làm cho họ lâm vào tình trạng mà không thể bảo vệ được tài sản của mình, nhìn thấy người phạm tội lấy tài sản của mình nhưng mà không làm gì được.
+ Ngoài ra, còn loại hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng lại chiếm đoạt sau khi đã thực hiện xong hành vi phạm tội khác (thông thường là hành vi phạm tội giết người; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hiếp dâm; cưỡng dâm).
Đây cũng là một loại hành vi mà nhiều người lầm tưởng đó là hành vi cướp tài sản vì hành vi đó nó được thực hiện sau khi đã thực hiện một hành vi khác đó là dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
Nếu là tội cướp tài sản thì việc thực hiện hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực phải nhằm vào mục đích phục vụ cho hành vi cướp tài sản của người phạm tội.
Còn đối với trường hợp này thì thực chất với mục đích ban đầu của người phạm tội là thực hiện tội phạm khác (giết người, hiếp dâm,…), sau khi đã thực hiện xong tội phạm của mình thì người phạm tội mới phát hiện tài sản của nạn nhân và mong muốn chiếm đoạt đi tài sản đó. Như vậy, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về cả 2 tội là tội phạm đã thực hiện ban đầu và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Tính chất công khai uy không phải là hành vi khách quan của tội phạm, nhưng tính chất này lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đây là loại dấu hiệu chủ yếu và dễ dàng để phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản, nếu như có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút mà người chủ sở hữu hoặc người quản lý trực tiếp tài sản mà không biết là sẽ cấu thành hành vi trộm cắp tài sản.
Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết phải là công nhiên với chủ sở hữu hoặc công nhiêm với người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút nhằm để tiếp cận được tài sản, nhưng khi chiếm đoạt thì người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.
Sự công nhiên chiếm đoạt ở đây là công khai hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không có nghĩa là người phạm tội công khai danh tính của mình. Tuy công khai chiếm đoạt tài sản nhưng người phạm tội sẽ không muốn để bị hại hoặc người khác biết mình là người chiếm đoạt tài sản đó.
Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về thực tế về tài sản mà cụ thể ở đây là giá trị tài sản của nạn nhân bị chiếm đoạt. Mặc dù, khoản 1 của Điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới có thể cấu thành tội phạm được, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo một số điều kiện nhất định được quy định tại khoản 1 Điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả tài sản bị chiếm đoạt công khai xảy ra.
Mặt chủ quan
Tội chiếm giữ trái phép tài sản:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây thì có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội thì họ đã nhận thức rõ hậu quả xâm phạm đến quyền tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản và mong muốn cho hậu quả của tội phạm được xảy ra hoặc tuy họ không mong muốn hậu quả của tội phạm xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc để cho hậu quả xảy ra.
Mục đích chính của người phạm tội đó là mong muốn giữ bằng được tài sản do bị giao nhầm, tìm được hoặc bắt được. Ngoài mục đích này, người phạm tội sẽ không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Ở đây không xuất hiện hay không có lỗi cố ý gián tiếp đối với lỗi này. Cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình là gây ra nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Tức là người phạm tội biết rõ tài sản mà mình công nhiên chiếm đoạt là tài sản của người khác và mục đích của người phạm tội là muốn chiếm đoạt số tài sản đó và biến tài sản của người khác đó thành tài sản của mình.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng sẽ có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của họ, khác với các tội như: cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích để chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của mình, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội rồi.
Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Về hình phạt
Tội chiếm giữ trái phép tài sản:
Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 quy định có 02 khung hình phạt đối với người phạm tội được quy định cụ thể như sau:
Khung hình phạt thứ nhất: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người cố tình mà không trả lại cho chủ sở hữu, cho người quản lý hợp pháp của tài sản hoặc không giao nộp lại tài sản cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản và tài sản có trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, hoặc giá trị tài sản dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản đó là di vật, cổ vật hoặc các vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, do mình bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm có yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật.
Khung hình phạt thứ 2: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với những người phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia.
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
Căn cứ tại Điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định 05 khung hình phạt bao gồm 4 khung hình phạt chính và 1 khung hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này cụ thể như sau:
Khung 1: Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với những người có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác mà tài sản có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc tài sản có trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khung 2: Khung hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với những người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Hành hung để tẩu thoát;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;
đ) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại một trong các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
Khung 3: Khung hình phạt phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội.
Khung 4: Khung hình phạt phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Qua những phân tích của chúng tôi nêu trên thì đã xác định được vấn đề về những điểm khác nhau và giống nhau cơ bản của tội chiếm giữ trái phép tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình tìm hiểu các quy định của pháp luật hay trong cuộc sống có bất kỳ vướng mắc nào của pháp luật, hãy trực tiếp liên hệ đến đường dây nóng 1900.6174 để được hỗ trợ giải đáp miễn phí.
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép được xác định như thế nào?
>> Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép được xác định như thế nào? Gọi ngay 1900.6174
Căn cứ Phần II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP quy định về việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng như sau:
Đối với các hành vi xâm phạm sở hữu nói chung việc xác định đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt; do đó, cần chú ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu:
1. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng được xác định theo giá thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng.
2. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
3. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
4. Để xác định đúng giá trị tài sản bị xâm phạm trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì; nhãn, mác của tài sản đó như thế nào; giá trị tài sản đó theo thời giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm là bao nhiêu; tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm… để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.
5. Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích…).
Đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm.
6. Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
7. Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính.
8. Với mục đích xâm phạm sở hữu, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên việc xâm phạm sở hữu phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 500 ngàn đồng.
Trên đây là 8 cách thức để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép. Nếu bạn có những thắc mắc gì về vấn đề xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt tài sản hãy trực tiếp liên hệ với chúng tôi qua hotline 1900.6174 để được tư vấn cụ thể.
Tội chiếm giữ trái phép tài sản đó là một tội phạm nguy hiểm cho xã hội. Khi người thực hiện 1 hành vi vi phạm pháp luật thì người phạm tội sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật khác nhau. Để hiểu biết hơn về các quy định của pháp luật, quy định về tội phạm này hay có thắc mắc về vấn đề nào liên quan đến pháp luật thì hãy liên hệ tới 1900.6174 để được Tổng Đài Pháp Luật hỗ trợ tư vấn và giải đáp thắc mắc.